Các bản Kiều đã in ấn có thể chia thanh hai loại là bản Nôm và bản chữ Quốc ngữ, trong các bản Nôm còn chia thành bản Kinh và bản Phường còn các bản chữ Quốc Ngữ có thể chia làm các bản trước Cách mạng 1945 và các bản sau Cách mạng.
Bản Nôm thuộc lớp đầu là Kim Vân Kiều tân truyện của Phạm Quý Thích cùng thời với Nguyễn Du in khắc vào năm 1830 nhưng đã thất lạc. Sau còn nhiều bản Kiều Nôm khác như Thanh tâm tài tử 1830 (có Tổng thuyết của vua Minh Mệnh), Đoạn trường tân thanh 1871 (có bài Tổng từ vua Tự Đức), bản này sau được gọi là bản Kinh gốc. Các nhà sách ở Hà Nội như Liễu Văn Đường, Quan Văn Đường, Phúc Văn Đường v.v… đều có in ấn những bản Kiều Nôm trong đó đáng chú ý có bản Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu (soạn theo bản Kinh), Quan Văn Đường in ấn (1902 – Thành Thái), bản Kim Vân kiều tân tập cũng Quan Văn Đường in (1906 – Thành Thái).
Bản Kiều Quốc ngữ đầu tiên có lẽ là bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký (1875), Nguyễn Văn Vĩnh biên soạn Kiều năm 1912, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim có Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long thư quán Hà Nội xuất bản (1927). Nói chung đã có tới trên 40 văn bản Truyện Kiều được phát hiện trong đó có nhiều học giả soạn Kiều bằng chữ Quốc ngữ như Bùi Khánh Diễn, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Kim Chỉ, Nguyễn Can Mộng, Hồ Đắc Hàm, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim v.v… (trước Cách mạng).
Về văn bản học, các nhà biên khảo đều mong khôi phục lại diện mạo chân thực của tác phẩm, các phần hiệu đính và khảo dị chính là nhằm mục đích đó. Đó là phương pháp so sánh để phân biệt đúng sai nhằm tìm ra chân lý, đặt ra trước bạn đọc một bản Kiều mà nhà biên khảo cho là sát hợp với nguyên tác hơn cả.
Trong số các nhà khảo cứu biên soạn Kiều có Tản Đà nhà Nho và nhà thơ. Vào cuối đời, Tản Đà đã biên khảo một quyển Kiều góp thêm một bản văn Kiều vào danh mục các công trình biên khảo Kiều soạn bằng chữ Quốc ngữ.
Quyển Vương Thúy Kiều của Tản Đà nguyên là một di cảo, sau khi nhà thơ qua đời, gia đình tìm thấy bản thảo trong một chiếc bồ, mới đưa cho ông Vũ Đình Long, chủ nhân Nhà xuất bản Tân Dân trong một buổi ông tới thăm gia đình. Bản thảo này mất hẳn trang cuối, còn lại đều được đầy đủ gồm có lời tựa, phần “Nguyễn Du tiên sinh tiểu truyện” và “Mấy lời nói về thể lệ trong quyển” rồi đến phần soạn Kiều đề là Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, nhà xuất bản Tân Dân in và phát hành vào năm 1941, tới 1952 Nhà xuất bản Hương Sơn đã in lại.
Cũng như các bản Kiều khác, bản Kiều của Tản Đà cũng có hiệu đính, có chú giải, nhưng phần đặc sắc của bản Kiều Tản Đà chính là ở các lời bình văn, bình luận về văn chương, về từ ngữ, giúp người đọc thưởng thức sâu hơn về tác phẩm, nhận thức thâm thúy về giá trị văn học của Truyện Kiều – Nguyễn Du.
Với câu “Phong tình có lục còn truyền sử xanh”, Tản Đà viết: “Phong tình có lục nghĩa là có cái bản truyện phong tình, chữ có (Bản Triều Nguyễn Thạch Giang (1973) viết là cổ, bản Bùi Khánh Diễn (1851- 1912) cũng chép là cổ).
Về câu “Ngày xuân con én đưa thoi”, Tản Đà chú: “Câu này muốn nói ngày xuân đi nhanh thấm thoắt mà nhân cảnh xuân có những con én bay đi bay lại, cho nên đặt như đây là lời văn tả cảnh. Có bản giảng vì cái thoi dệt cửi làm như hình con chim én, nghĩa đó thực sai”.
Như vậy cau “phong tình có lục” là hiệu đính văn bản còn câu “Ngày xuân con én” là đính chính chú giải của một số nhà biên khảo khác.
Có chỗ chú giải mà là hiệu đính, hiệu đính mà cũng bàn tới văn lý như câu:
Sắm sanh nếp tử xe châu
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Câu này là ở đoạn có “người khách viễn phương” tìm đến với Đạm Tiên thì nàng đã mất rồi. Khách “Khóc than khôn xiết sự tình” rồi đắp mộ cho Đạm Tiên. Tản Đà viết ở chú: “Hai chữ “bụi hồng” đây chỉ là lời văn lịch sự nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là “vùi nông” thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý”.
Đọc Kiều mà nhận thức câu, chữ như thế thật là sâu kỹ. Quả là khách đã “khóc than khôn xiết”, đắp mộ cho Đạm Tiên hẳn là phải có tâm hồn đồng điệu của nòi tình, làm sao lại có thể là “vùi nông” cho được.
Về câu:
Cửa sài vừa ngỏ then hoa
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang.
Các bản Nôm cũng như Quốc ngữ đều chép “cửa sài” và chú “sài là sài môn, xếp củi làm cửa”. Tản Đà sửa là: “Cửa ngoài…” và chú: “Cửa ngoài tức là cửa ngăn. Chữ này có nhiều bản in là cửa sài là lầm. Vì cửa sài là bởi chữ “sài môn” là cái cửa làm bằng củi hay nhánh tre, là cửa ngõ của những nhà nghèo hay những người cao đạo ẩn dật chớ không phải là cái thái độ(1) của nhà Ngô Việt thương gia”.
Về câu: “Đêm thâu khắc lậu canh tàn”, Tản Đà chú: “Câu này chữ vợi các bản đều để chữ lậu là lầm, mà chữ thâu thì có nhiều bản đề là thu. Song cứ theo văn thế và tôi có được nghe thì chữ thâu, chữ vợi, chữ tàn, ba chữ cùng nghĩa mà có hơi khác, nghĩa là đêm càng thâu, ngày càng vợi, canh càng tàn. Câu đây và câu sau (Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương) thực là hai câu tả tình cảnh rất hay cho nên cần phải biện bạch. Một chữ trút ở câu dưới nghe cũng khác thường, đủ thấy chỗ dụng công của tác giả”.
Như vậy, Tản Đà vừa đính chính từ, vừa hiệu đính câu, mà cũng làm công việc bình văn luôn trong đó.
Các bản Kiều thường là chỉ làm công việc chú giải và hiệu đính mà không có bình luận văn chương nhưng ở bản Kiều Tản Đà phần bình văn lại là phần quan trọng với những nhận xét tinh tế, có những phát hiện độc đáo. Một điểm đặc sắc trong các lời bình văn Kiều của Tản Đà là có lời khen cũng có chê, không chỉ tán tụng một chiều, mà đi vào phân tích câu và từ để có những nhận xét xác đáng. Tản Đà cho biết: “Phàm các việc giảng giải trong bản đây cốt để tỏ cái hay khéo trong văn chương cho được rõ chỗ tinh thần của tác giả, mà nếu có những chỗ đáng hồ nghi về văn lý cũng xin chỉ rõ những chỗ hồ nghi ấy mong để độc giả cùng nhận coi”.
Với lời Kiều sau khi thăm mộ Đạm Tiên:
Người mà đến thế thời thôi
Đời Phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tản Đà khen: “Mấy câu đây thật tài tình! Dùng hai chữ “người” mà trên nói được ra Đạm Tiên, dưới nói được ra Kim Trọng, sự linh động ở hai chữ khiến(2) là chữ “mà” và chữ “đâu”.
Về câu:
Vắng nhà được buổi hôm nay
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
Tản Đà tán thưởng: Hai chữ “lòng” trong câu đây rất có màu nhiệm. Nguyên trên kia lời Kim Trọng: “Trách lòng hờ hững với lòng”, cũng hai chữ “lòng” nói buông không mà một chữ trên nói Kiều, chữ dưới thời nói vào mình. Cho nên trong câu đây hai chữ, chữ trên nói vào mình mà chữ dưới nói chàng Kim, thực là giọng tri âm với nhau lắm”.
Câu:
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Tản Đà nhận xét: “Chữ gã đây thật mới mà nghĩ ra không thể có đặt chữ gì hơn. Tác giả thật cũng đã tốn công” – “chữ đứa cũng mới, đi theo với chữ gã, thật hay”.
Với câu “Mày ai trăng mới in ngần”, các bản Kiều có bản chép “Mày ải” như bản Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Vĩnh, cũng có bản chép “Mày xanh” như bản Bùi Kỷ. Tản Đà chép là “Mày ai” và chú: “chữ ai” trong câu đây là nói về Kiều, trông thấy trăng đầu tháng in cái vệt cong mà tưởng như lông mày của ai vậy.
Theo Nguyễn Văn Hoàn cho biết: “Trong báo Khuyến học số 4 (15-10-1935), Tản Đà giảng nghĩa câu thơ trên như sau: “Chữ ai trong câu đây là chỉ vào Kiều. Thúc Sinh trông thấy “trăng mới in ngần” mà nghĩ như cái lông mày của ai. Tứ văn giống như trong Trường hận ca, Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quý Phi có câu: “Phù dung như điện, liễu như mi”. Tiến lên một bước nữa, Tản Đà chê bản Kiều của Bùi Kỷ chép “Mày xanh” là vô vị”(3).
Không rõ cụ Nguyễn Du viết “Mày ai” hay “Mày xanh” nhưng xét về mặt văn tự, “Mày ai” rõ ràng hơn “Mày xanh” vì “Mày xanh” chỉ tả được cái hình dạng, còn “Mày ai” mới tả được tâm trạng của Thúc Sinh nhớ Kiều và cũng gợi lên hình bóng một con người.
Đoạn tả cảnh Giác Duyên dựng lều bên sông Tiền Đường để đợi đón Thúy Kiều theo lời thần mộng có câu:
Đánh tranh lợp mái thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Tản Đà khen câu tám: “Câu này lời văn rất đẹp”.
Đoạn Kiều giãi bày tâm sự với Thúy Vân, kể từ câu:
Rằng lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong…
Cho tới câu:
Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tất cả là 19 câu lục bát, Tản Đà nhận xét: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly mà như thế mới hết tình sự”.
Trong đoạn Thúy Kiều dựa thế Từ Hải báo ân báo oán có câu nói về Kiều đón mụ quản gia nhà Hoạn Thư và sư Giác Duyên lên ngồi cạnh:
Dắt tay mở mặt cho nhìn
Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
Tản Đà có một câu nhận xét bất ngờ mà thú vị: “Xem hai chữ “mở mặt” trong câu đây, có lẽ sự ăn mặc của Kiều trong lúc ấy có chàng mạng che ở trước mặt chăng?”.
Có lẽ chưa có ai biên khảo và đọc Kiều lại chú ý chi tiết đến tỉ mỉ như vậy.
Tản Đà có những nhận xét đột ngột rất thú vị như với câu:
Lạy thôi nàng lại chưa tường
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
Tản Đà viết: “Hai chữ “nghĩa chàng” ngẫm rất buồn cười. Câu này, tác giả cũng vì cô Kiều được thế mà làm nũng”
Ý kiến Tản Đà và khái niệm “nghĩa chàng” ở đây có phần khó hiểu, tại sao lại “rất buồn cười” và “làm nũng”?
Trong những nhận xét về văn Kiều, Tản Đà không chỉ ca ngợi tán tụng như số đông người viết về văn chương truyện Kiều, không chỉ dành cho tác giả những dấu son khuyên đỏ thắm mà còn đặt ra những dấu hỏi, chỉ ra những chỗ theo Tản Đà là yếu kém, là chưa hợp lý. Quả là Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có những tình tiết bất hợp lý, người đọc cũng như nhà biên khảo cứ xuôi theo mạch chuyện, dòng văn mà không để ý, nhưng Tản Đà đã thấy và chỉ ra được. Chẳng hạn đoạn Kim Trọng thuê nhà trọ ở giáp với nhà Thúy Kiều, Trọng lại là bạn của Vương Quan, ợ trọ đã được hai tháng:
Nhận từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Tản Đà nhận xét: “Nghĩa là gần hai tháng – Nhân câu này ngẫm ra thấy có một tình sự đáng buồn cười. Kim Trọng với Vương Quan là chỗ bạn học thân, mà Trọng đến trọ sau nhà Quan đã gầnhai tháng, hai người không hề sang chơi nhau, mà Kim để ý ngấp nghé một sự khác. Chỗ đó nghĩ sao cho hợp tình?”.
Quả “chỗ đó” cũng đáng cho chúng ta đặt một dấu hỏi.
Cũng một chỗ đáng hồ nghi khác, đoạn Kim Trọng tặng Kiều vài vật làm kỷ niệm:
Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Tản Đà đặt một dấu hỏi: “Câu này nghĩ đáng hồ nghi, vì lẽ Kim Trọng trong chỗ du học làm gì có “xuyến vàng” đem theo? Mà cũng không phải là cái vật của học trò con trai thường có”.
Đọc Kiều đến như thế, rõ ràng có một sự nghiền ngẫm sâu vào tinh thần nghiêm túc cao.
Tản Đà chê câu “Chày sương chưa nện cầu Lam” theo điển tích Bùi Hàng – Vân Anh bên Trung Quốc: “Cứ điển tích của câu này như thế mà đây đại ý chỉ là nói chưa thực lấy nhau. Vậy thời sáu chữ đây văn quá cầu kỳ mà một chữ “nện” nghe thấy rất nặng nề, những chỗ như đó tưởng người xem truyện cũng nên xét”.
Trong đoạn tả Từ Hải chia tay Thúy Kiều có câu:
Trông vời trời bể mênh mông
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Tản Đà có ý kiến: “Trong câu này hai chữ “thẳng giong” ngẫm ra chưa được tinh tế, vì ở dưới còn có lời Kiều muốn theo. Nếu quả thật Từ đã “lên đường thẳng giong” thời nàng còn nói sao được nữa. Cho nên như chữ đó có thể gọi là vội lời”.
Trong các câu mà Tản Đà Phê, có một câu với một từ đã khiến Tản Đà chê trách nặng nề, đó là câu: “Xét mình công ít tội nhiều”, lời Kiều nói về Hồ Tôn Hiến trong tiệc hạ công (mừng công) của họ Hồ. Tản Đà phê: “Chữ “công” trong câu này nghe không được yên nghĩa; vì sự giết Từ Hải; tự Kiều không nên nói là công”.
Ở một số Đông Pháp thời báo (Diệp Văn Kỳ – Sài Gòn), Tản Đà viết: “Như quyển truyện Kiều của ông Nguyễn Du, sự hay không còn phải nói nữa, song đến như câu: “Nghĩ mình công ít tội nhiều”, một chữ “công” đó thật quá dốt! Là sao? Như Từ Hải mà chết là do nghe lời Thúy Kiều khuyên, như Thúy Kiều mà khuyên chỉ là do cái bụng đàn bà nông nổi. Nay đặt như câu đó thời ra Kiều lập chí lấy sự giết Từ Hải làm công, thời Thúy Kiều không còn chút giá trị. Thúy Kiều đã không có giá trị thời như quyển truyện Kiều đó còn hay với ai mà cảm khái với ai! (ĐPTB số 638-1927).
Từ xưa tới nay, không một nhà bình luận văn học, biên khảo Truyện Kiều nào đã hạ bút “phê” Kiều, chỉ ra những chỗ “yếu kém” hoặc chưa đạt trong tác phẩm của Tiên Điền. Người đọc chỉ được thấy những lời ca tụng, tán dương cái hay cái đẹp cái tài tình ở Kiều. Duy chỉ có một Tản Đà đọc Kiều, biên khảo Kiều dám làm cái việc chưa ai dám làm ấy. Những ý kiến của Tản Đà đã giúp cho người đọc có một nhận thức sâu sắc nhiều mặt về Kiều chống lại sự sùng bái ca ngợi một chiều làm hẹp đi tầm nhận thức và tư tưởng khi tiếp cận Kiều.
Tản Đà “phê” Kiều như ở đoạn chê chữ “công” trong câu: “Xét mình công ít tội nhiều”, lời Kiều nói với Hồ Tôn Hiến như trích dẫn trên cũng là biểu hiện, minh chứng cho quan điểm của Tản Đà trong thưởng thức văn chương. Thực vậy, đây không chỉ là ý kiến của nhà thơ bất ngờ nảy sinh khi đọc Kiều mà thuộc về quan điểm có tính lý luận, bảo đảm tinh thần khách quan, khoa học và bảo đảm tự do tư tưởng trong thưởng thức văn học. Tản Đà viết về Người xem văn, nêu lên ý kiến: “…nên phải có một cái bụng thực công bằng, nghĩa là chỉ cứ luận ở văn mà không nên chú ý ở tên người tác giả; nếu một quyển sách, một bài văn mà tác giả là cụ thượng, ông nghè hoặc danh nhân danh sĩ thời sẵn lòng cho là hay. Cái tâm lý đó rất là nhu nhược mà tức là bị cái thế lực của người làm ăn áp đảo được mình. Đã như thế thời xem đến một bài văn, quyển sách của một người đơn thường có sẵn để một bụng coi thường. Vậy do cái bụng không công bằng ấy mà thành ra mình tự lầm, vì có nhiều khi cái danh với cái thực không đúng nhau mà thiên hạ kỳ văn thường ở những chỗ vô danh vậy”. (ĐPTB).
Đoạn bình và phê từ “công” trong truyện Kiều chính là một đoạn tiếp sau đoạn văn dẫn trên, Tản Đà “phê” Nguyễn Du cũng để minh chứng cho quan điểm về người xem Văn của mình, đến như cụ Nguyễn Du với tác phẩm Kiều mà còn có từ dùng chưa chính xác, còn chịu phê là “Thật quá dốt” khi dùng từ “công” huống chi là những tác giả, tác phẩm khác.
Quan điểm thưởng thức văn chương mà Tản Đà nêu lên là khoa học và đúng đắn, còn việc Tản Đà phê như vậy là đúng hay sai xin để các bạn đọc Kiều cho ý kiến.
Biên khảo Truyện Kiều, Tản Đà đã tỏ ra có tâm huyết với cổ văn, trân trọng với tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du, có như vậy mới dấn mình vào một công cuộc khảo cứu đòi hỏi nhiều tâm và lực về một tác phẩm văn học lớn. Tản Đà cũng cho thấy tất cả công phu, tinh thần nghiêm túc và sự tinh thế, nhạy cảm thẩm mĩ khi biên soạn Kiều, đặc biệt là với những câu xưa nay không ai có nhận xét gì. Tản Đà đã lật ra được những điều cần lưu ý. Tập Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện của Tản Đà là một đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn học truyền thống. Cũng qua Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện chúng ta hiểu Tản Đà hơn, thấy được ở Tản Đà một nhà Nho uyên bác và một nhà thơ đầy bản lĩnh.
Chú thích:
1. Từ “thái độ” có lẽ là lỗi in sai? Nên hiểu là phong thái hay phong độ.
2. Chữ “Khiến” ở đây cũng không có nghĩa. Không rõ có phải là lỗi in sai?
3. Theo Nguyễn Văn Hoàn trong Nghiên cứu văn học số 6-1962.
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1997 (tr.760-771)
Nếu so sánh với Tản Đà thì tôi chỉ là vực thẳm còn Tản Đà là núi Thái Sơn ; và Tản Đà cũng giống tôi khi so sánh với Nguyễn Du .
Nguyễn Du không dốt mà Tản Đà quá hợm mình : ông không những đã “ chơi ngông ” mượn ý Trời , ý Tiên để ca ngợi thơ mình , lại còn thóa mạ một Truyện Kiều nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới , thóa mạ một Đại thi hào dân tộc , một Danh nhân văn hóa Thế giới để làm đòn bảy nâng mình lên , điều này ông không những không “ đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn học truyền thống ” mà đã làm hoen ố nền văn học nước nhà .
…Nguyễn Du quá thâm thúy nên khi đọc Truyện Kiều phải vào lúc đêm khuya thanh vắng , yên tĩnh , một mình một ngọn đèn , tư duy cao độ lần dở cẩn trọng từng trang họa chăng mới hiểu được ý thơ của ông chứ không thể mơ hồ “ tầm chương trích cú ” vụn vặt nói tùy tiện ; Nhất là thường thường muốn hiểu được một câu , một chữ thơ Kiều phải đọc quay ngược trở lại hoặc tiếp theo cách hàng chục , hàng trăm câu để khảo cứu – Đó là văn phong cực kì độc đáo có một không hai của ông .
Tôi sẽ có bài chứng minh sự tài tình dùng chữ “ công ” của Nguyễn Du trong câu thơ :
“ Xét mình công ít tội nhiều ”
Kính cảm ơn bạn đọc
Nguyễn văn vị Nhiên Hương
Để thấm thía tài trí phi phàm của Nguyễn Du , trước khi đàm luận về chữ “ công ” trong câu thơ ở Truyện Kiều của ông : “ Ngẫm mình công ít tội nhiều ” , tôi xin phép trình bày ý nghĩa một số câu thơ khác thể hiện văn phong tương tự như câu thơ trên của ông để bạn đọc tham khảo :
Bài viết thứ 10 :
Suy Nghĩ Đôi Điều Chưa Được Bàn Tới Thấu Đáo Trong Truyện Kiều Của Nguyễn Du
Từ xưa tới nay chỉ duy nhất Truyện Kiều của Nguyễn Du được ca ngợi là : “ Truyện của muôn đời viết về những con người muôn thuở ” – Nguyên thứ trưởng Bộ giáo dục Võ Thuần Nho đã nói .
Ấy là chúng ta mới chỉ nhìn nhận tài năng sáng tạo , biến tấu một cốt truyện xưa mang sắc thái mới thời đó ; bằng thể loại vần điệu mượt mà dễ thuộc , tình tiết mới éo le chí lý , với kết cục có hậu và đặc biệt có nhiều lời hay , ý đẹp cùng tài ba khéo léo vận dụng ca dao , tục ngữ , chuyện dân gian vào thơ Kiều , và ngược lại thơ Kiều có câu đã thành ca dao , tục ngữ ; ông còn chế tác nhuần nhuyễn đến mức Việt hoá điển cố , điển tích Trung Hoa . ( Thêm nữa là lối chơi chữ diệu huyền (1) của ông ) – mà chúng ta chưa khảo cứu , để ý đến một phương diện rất độc đáo có một không hai trong văn phong của Nguyễn Du , đó là : sự móc nối lẫn nhau về ý nghĩa giữa các từ ngữ , các câu thơ viết cách xa nhau rất bí ẩn và vô cùng kỳ thú ở mọi lĩnh vực : khoa học tự nhiên , khoa học xã hội , triết học v.v và v.v…
Xin cùng suy xét , nghiền ngẫm đôi điều ở những câu thơ sau :
“ Cỏ non xanh rợn chân trời ” ( câu 41 ) – tinh ý chúng ta sẽ thấy hiển hiện trước mắt một bãi đất rất dài , có cỏ xanh non ,dài mãi xa tắp tít chân trời ( dù “ tận ” hay “ rợn ” thì đã đến chân trời đều là xa cả . Theo tôi Nguyễn Du không viết thừa chữ thiếu ý với chữ “tận” tầm thường ).Để nối tiếp ý , cách tám câu thơ sau ông lại gieo một câu thơ chấm phá :
“ Ngổn ngang gò đống kéo lên ” ( câu 49 ) – thì rõ ràng chiều ngang của bãi tha ma này rộng lớn quá , rộng tới mức có rất nhiều gò đống cao ngập đầu người , đến nỗi người đứng ở bên này gò không nhìn thấy người đi ở bên kia , mãi tới khi họ lũ lượt nhô dần lên đỉnh gò đống : kẻ chênh chếch đi ngang , người tấp nập bước dọc mới biết là :
ngổn ngang người
ở “ Ngổn ngang gò đống…” (2)
Liệu có ai nghĩ ra , viết nổi chỉ bằng hai câu thơ miêu tả thôi ( c 41 và c 49 ) mà lại là một cách đo ước lệ chiều dài , chiều rộng mênh mông của bãi tha ma – ẩn ý , tài tình khiến nhiều người chúng ta xưa nay vẫn không ngờ tới – toán học . ( Nguyên thứ trưởng Bộ giáo dục Võ Thuần Nho từng nêu đại ý là Nguyễn Du đã có ý tứ về Vật lý ở bài Văn tế thập loại chúng sinh trong câu : “ Đòn gánh chín rạn hai vai ” )
… Ở một ý tứ khác , xin trở lại câu thơ :
“ Cỏ non xanh rợn chân trời ”
Ai cũng biết là màu xanh có nhiều dạng : xanh xanh , xanh lục , xanh lam .v.v… , còn “ xanh rợn ” thì chỉ có Nguyễn Du sáng tạo ra ( cùng với các chữ : “Sè sè” , “Dàu dàu” , “áy” rất mới lạ , đầy cảm xúc , ngoài hình thái ) , đó là một màu xanh tươi mơn mởn của cỏ non vào buổi sáng mùa xuân ( sau một năm trời trước khi có người đi tảo mộ ) ; song cái màu xanh rờn rợn ấy như báo hiệu trước một sự bất chắc . Và đúng thế , ngay buổi chiều hôm đó cỏ non xanh này đã biến đổi màu sắc rất thê thảm : “ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh ” ( c 58 ) . Thậm chí nó còn thương tâm đến nỗi : “ Một vùng cỏ áy bong tà ” ( c 97 ) – màu sắc “ áy ” úa của cỏ xanh non có nhựa loang loáng dưới ánh nắng chiều tà khác hẳn màu sắc héo lụi quăn queo của cỏ già khi cùng bị dẫm đạp như nhau do người đi tảo mộ .
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Du đã so sánh sự huỷ diệt nhanh chóng một sớm một chiều của cỏ non xanh này không khác gì cuộc đời ngắn ngủi của Đạm Tiên , nàng còn trẻ trung đầy sức sống như thế mà đã “… thoắt gãy cành thiên hương ” ( “ Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương ” – c 66 ) phải chăng lòng nhân đạo (3) của ông ở đây lại là cảnh báo về hậu hoạ tang thương cho những người con gái khác làm nghề kỹ nữ ( sự móc nối lẫn nhau về ý nghĩa giữa hai câu thơ thứ 41 và 97 là như thế ! ) .
… Xin tiếp tục suy xét hai câu thơ khác viết cách xa nhau hơn nữa để thấy thêm điều lý thú , dù có nỗi xót xa ( c 92 và c 216 ) :
“ Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương” ( c 92 )
Có ý kiến cho rằng ở đây Nguyễn Du muốn nói là nén “tâm hương” chứ chị em Thuý Kiều đã ra về rồi còn lấy đâu hương nữa mà thắp ( “Chị em thơ thẩn dan tay ra về” – c 52 ) – một PGS tiến sĩ phê bình văn học đã nói đại ý như thế .
Song , nếu chúng ta chỉ cần chú ý một chút và có thực tế là đã từng đi tảo mộ thì thấy rất rõ từ “sẵn đây” của Nguyễn Du viết rất xác đáng ; bởi vì :
Trước khi đi tảo mộ không ai tính đếm xem có bao nhiêu ngôi mộ để mang bấy nhiêu nén hương mà thường thường họ cầm theo dăm , ba , bảy thẻ hương , nắm hương . Ở những ngôi mộ đầu người ta thường thắp một hoặc ba nén hương , đến những ngôi mộ cuối còn thừa nhiều , họ cắm hết chứ không ai mang hương đó về nhà cả . Khi Thuý Kiều khóc than sướt mướt ở mả Đạm Tiên thì Thuý Vân và Vương Quan đứng nhìn quanh quẩn thấy ở những ngôi mộ gần đấy có nhiều hương , hai người đã đi ngang bước dọc đến tỉa bớt (4) hương có ở “Sẵn đây…” đem về đưa cho Thuý Kiều hoặc tự mình cắm vào mả Đạm Tiên :
Đó là hương thừa .
Thế rồi , mãi tới 124 câu thơ sau ,Nguyễn Du mới gieo tiếp :
“Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây” – (c 216 )
Đây không phải là hương thừa hoa thải sau nghi lễ , vả lại bóng dáng hồn ma hiển hiện thời xưa thì người ta rất kính cẩn , thế sao Nguyễn Du không viết là :
Hương thơm dường hãy ra vào đâu đây .
hay ít ra ông cũng có thể viết là :
Hương còn phảng phất ra vào đâu đây .
mà ông lại dùng từ “Hương thừa” .
Như vậy : những nén hương có từ kiếm được ở “Sẵn đây” nói trên và mùi hương tự thân của bóng dáng hồn ma Đạm Tiên toát ra , tất cả đều là “Hương thừa” . Có lẽ :
Đó là dụng ý vô cùng thâm thuý của Nguyễn Du mà ít người để ý tới – dù chỉ sử dụng có một từ thôi đã như nhắc lại , khuyến cáo tiếp rằng cái nghề kỹ nữ không những sớm kết liễu cuộc đời mà ngay khi còn sống thì phải làm vợ khắp mọi người đàn ông , đến lúc chết thì làm con ma không chồng , con ma cô đơn , cô độc , cô quả mà thời đó là sự nguyền rủa đắng cay . ( “Sống làm vợ khắp người ta” ( c 87 ) . “Hại thay thác xuống làm ma không chồng” ( c 88 ) ) .
Thậm chí , trong ngày thanh minh ở những ngôi mộ khác : vợ , chồng , con cái , cháu chắt người ta kính cẩn khói hương nghi ngút , tiền vàng tràn trề ( “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” ( c 50 ) ) thì dù rằng ngôi mộ của Đạm Tiên ở ngay bên đường đi , cũng không có một ai đắp điếm , nắng mưa bào mòn ; đau đớn thay lại bị nhiều người đẫm đạp (5) lên đến nỗi chỉ còn thấp tè một nấm đất thảm hại ( “ Sè sè nấm đất bên đường” ( c 57 ) ) và không có lấy dù chỉ một nén hương tử tế ; may thay được chị em Thuý Kiều cắm cho mấy nén “hương thừa” ( các câu : 41,49 – 41,97 – 92,216 cùng với các câu : 50,57,58,87,88 móc nối triết lý )
… Bây giờ chúng ta lại tìm hiểu sang một lĩnh vực khác nữa để thấy cách bố cục ý tứ lắt léo rất tài tình giữa các câu thơ cũng cách xa nhau có mối liên quan ý nghĩa với nhau ( các câu thơ thứ : 612,648,829,830 ) :
Một nhà thơ đương đại thắc mắc đại ý : tại sao Mã Giám Sinh đã đồng ý mua Thuý Kiều với giá bốn trăm lạng vàng rồi :
“ Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” ( c 648 )
thế mà sau đó chính hắn lại tự nhủ là chỉ cần có ba trăm lạng vàng cũng đã đủ vốn :
“Hẳn ba trăm lạng kém đâu ( c 829)
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời” ( c 830 )
như thế có lẽ Nguyễn Du đã nhầm lẫn chăng ?
Không ! Xin thưa rằng Nguyễn Du không bao giờ nhầm lẩn cả , chỉ có chúng ta nhầm lẫn mà thôi , hay nói đúng hơn là không hiểu nổi ý tứ sâu xa của ông .
Xin chưa bàn đến tài chí tổng hợp trên thực tế ở khắp mọi nơi và ở các sách vở , kinh điển ; với trí tuệ uyên thâm cùng tính cách rất cẩn thận , sâu sát từng ly , từng tý của Nguyễn Du đã dụng tâm hun đúc : ý tứ , chữ nghĩa từ lúc trẻ đến khi đọc truyện của Thanh Tâm Tài Nhân , mới chấp bút và tận cuối đời mới sản sinh ra Truyện Kiều , thì làm sao có thể sai sót được dù mảy may mà khi tác phẩm này ra đời , ông vẫn thừa minh mẫn nên mới được vua Nguyễn cử đi sứ lần thứ hai chứ ( năm 1820 )
Sao lại bảo Nguyễn Du nhầm lẫn được . Đó là ông hiểu tâm lý xã hội rất thâm hậu : khinh rẻ con buôn , tôn vinh phẩm giá nhà nho .
Sự thể thế này : khách ở phương xa ( “viễn khách” – trích câu 624 ) từ Lam Kiều đến Lôi Châu mua Thuý Kiều ; khi Mã Giám Sinh còn “lạ nước , lạ cái” hắn chưa rõ hết nội tình , chỉ hành nghề theo bản năng rất cẩn thận ( “Đắn đo cân sắc cân tài” ( c 639 ) , “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”( c 640 ) ) thì thấy quá ưng ý rồi ( “Mặn nồng một vẻ một ưa” ( c 645 ) ) . Có lẽ so sánh với những “món hàng” khác , hắn cũng thấy giá cả xứng đáng như lời bà mối nói ( “Mối rằng : Giá đáng nghìn vàng” ( c 645 ) ) nên mặc dù rất keo kiệt , bủn xỉn , “cò kè” thời gian dài , bớt xén từng đồng , nhưng khi đến giá bốn trăm lạng vàng thì hắn thấy quá rẻ rồi nên đã đồng ý mua ( “ngã giá” ) ; song hắn đã phải trả tiền ngay đâu , mà tương tự như ngày nay chúng ta mua bất động sản thường đặt cọc tiền trước – hắn chỉ mới đưa canh thiếp để làm tin thôi ( “Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi” ( c 650 ) ) . Vì “Tiền lưng đã sẵn…” ( c 652 ) nên chỉ chờ làm thủ tục , nghi lễ cưới xin ( “Hẹn ngày nạp thái vu qui” ( c 651 ) ) do đó có thời gian dài để tìm hiểu mọi mặt ; với bản chất sợ hớ ( 6 ) của con buôn , hắn đã dò hỏi biết rằng chỉ cần có ba trăm lạng vàng là đủ chuộc được Vương ông rồi :
“Có ba trăm lạng việc này mới xuôi” ( c 612 ) – muốn hiểu ý nghĩa c 830 phải đọc ngược lại 218 c .
Vì thế hắn đã giở mặt lật lọng , bắt bí ( 7 ) và thực tế chỉ trả ba trăm lạng mà thôi .
Còn gia đình Vương ông bản chất nhà nho giáo “trọng nghĩa khinh tài” lại rất chất phác nên khi bị bắt bí dù phải mất đi hàng trăm lạng vàng vẫn đành chấp nhận , miễn sao cứu được Vương ông ; khỏi hoạn nạn . Xin nhấn mạnh lại :
Đó là dụng ý rất thâm sâu về lĩnh vực tâm lý xã hội của Nguyễn Du , ông đã bí hiểm nêu bật tính cách mỗi dạng người , hạng người đặc trưng trong xã hội thời đó : “ người ba đấng , của ba loài” là như thế đấy !
… Với hơn ba nghìn câu thơ , không thể đòi hỏi sự hoàn chỉnh mọi mặt , Nguyên Du thường coi trọng ý tứ thâm thuý ( ngôn tại ý ngoại ) , trọng cái lớn “đại sự” hơn là vận thơ “tiểu tiết” khi cần thiết , nên ở Truyện Kiều có câu thơ mặc dù không hợp vần , nhưng ý tứ , ý nghĩa chỉ một từ thôi cũng thật là bất hủ , như ở câu thơ sau :
“Khóc rằng : Trí dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này” ( c 2530 )
Có ý kiến cho rằng : “ … việc chàng không hoá lại cho thiếp một cơ hội là được tạ lỗi với chàng bằng mạng sống của mình …” – một PGS tiến sĩ phê bình văn học khác nói thế .
Chắc rằng Nguyễn Du không bao giờ dùng từ “cơ hội” này cho Thuý Kiều đâu ! Nếu chúng ta quay ngược lại bảy mươi tư câu thơ thì sẽ hiểu rõ thâm ý của ông :
“Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn” ( c 2456 )
thì rõ ràng Hồ Tôn Hiến nắm được cơ hội là Thuý Kiều thường được bàn việc quân với Từ Hải , nên hắn đã lừa gạt Thuý Kiều dụ Từ Hải đầu hàng để hắn hạ sát . Do đó “cơ hội” ở đây hay nói cách khác là “cơ hội này” ( mà Từ Hải , Thuý Kiều tang tóc , đau thương ) là của Hồ Tôn Hiến . ( Hai câu thơ : 2456 và 2530 móc nối ý nghĩa ).
… Một lần nữa , xin lưu ý là rất nhiều câu thơ Kiều của Nguyễn Du viết cách xa nhau cùng móc nối lẫn nhau về ý nghĩa sâu xa , rất bí ẩn kỳ thú như nêu trên ( và thường thường muốn hiểu ý nghĩa của câu chữ sau phải quay ngược trở lại đọc các câu chữ viết trước hoặc sau , có khi cách rất xa ) , với phạm vi một bài này , người viết chỉ xin phép nêu lên đôi điều để bạn đọc tham khảo , thưởng thức và đặc biệt là mở thêm hướng nghiên cứu về một khía cạnh rất độc đáo , tài tình trong văn phong của Nguyễn Du ( tôi xin chứng minh tiếp ở những bài viết khác có các câu , chữ kiểu như thế )
Mong rằng sự truyền bá không vị kỷ điều này để đời nay và mãi mãi con cháu chúng ta mai sau không hiểu sai dụng ý ( qua tài ba , thi pháp ) của Nguyễn Du , như những ý kiến đã nêu trên để càng thấy rõ sự trong sáng , mẫu mực của ý tứ , văn từ thơ Kiều , tránh tội lỗi với tiền nhân , đó cũng là nén tâm hương kính cẩn dâng lên Ngài cùng tiếng khóc thương như ông đoán nguyện :
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” ( Độc Tiểu Thanh ký )
Tháng 6 – 2010
Bút danh : Nguyễn văn vị Nhiên Hương .
Chú thích :
(1)diệu huyền : Câu thơ thứ 1638 : “ Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời” là chữ tâm , mà tên của Thúc Sinh là Kỳ Tâm , hình ảnh chơi chữ này ngầm nói lên Thuý Kiều đang nhớ Thúc Sinh .
(2)Ngổn ngang gò đống : Thời xưa người ít , đất nhiều ; bãi tha ma mênh mông hoang sợ rất nhiều gò đống to , nhỏ ; chứ không bằng phẳng như ngày nay . Mỗi năm chỉ có một lần người đến đông đúc để tảo mộ , còn thường ngày vắng ngắt .
(3)nhân đạo : Tôi không giám bàn về giá trị : nội dung , nghệ thuật , tư tưởng tác phẩm này bởi đã quá nhiều bậc cha ông tầm cỡ nói sâu sắc , chỉ xin phỏng đoán một vài khía cạnh chưa bàn tới như điều này .
(4)tỉa bớt : Nhiều điều tuy văn cảnh trong thơ Kiều không có , nhưng thường có thực tế thời xưa , nên lúc đó không ai thắc mắc . Đến bây giờ chúng ta mới khó hiểu vì không còn những điều thực tế đó.
(5)dẫm đạp : tâm lý ai cũng muốn mồ yên mả đẹp , thế mà mộ Đạm Tiên không có người đắp – thấp quá , lại ở bên đường nên bị nhiều người dẫm đạp lên rất thương tâm .
(6)sợ hớ : là đã mặc cả đồng ý giá rồi nhưng sợ bị đắt . Tuy văn cảnh không có , nhưng đó là thực tế không chỉ ở thời xưa mà thường thấy ngay cả ngày nay ở tính cách của con buôn không chân chính.
(7)bắt bí : ép buộc người khác phải làm theo ý mình , có lợi cho mình khi họ khó khăn hoạn nạn .
???
Bài viết thứ 13 :
Nhân đọc trích đoạn phê bình thơ
Kiều Nguyễn Du của thi sĩ Tản Đà :
“…như câu : “Nghĩ mình công ít tội
nhiều” một chữ “công” đó thật là
quá dốt … ĐPTB số 638_1927” .
Một chữ “công” thâm thuý với tâm lý xã hội rất sâu sắc của Nguyễn Du .
( hay Suy nghĩ về một chữ “công” kỳ bí trong kho tàng ngôn ngữ Tiếng Việt vô giá của Nguyễn Du ) .
Nguyễn Du quả thật tài tình
Chữ công nào dễ phân minh , tỏ tường …
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có rất nhiều từ ngữ mang ý nghĩa thâm thuý , rất bí ẩn , nếu chỉ hiểu trần trụi thì sẽ dẫn đến sai lệch đáng kể , điều này không tránh khỏi kể cả ở những văn sĩ tài hoa .
Chữ “công” trong câu thơ thứ 2559 là một trong những câu thơ có ý nghĩa bí ẩn như thế :
“Ngẫm mình công ít tội nhiều”
Phải chăng Nguyễn Du đã dễ dãi cho Thuý Kiều nói lên cái “công” giết chồng ư ? _ dù đó là sự nhẹ dạ cả tin của “nữ nhi thường tình” .
Không đâu ! _ sự tài tình trong văn phong rất độc đáo có một không hai của ông là như thế đấy ! _ khiến nhiều người kể cả văn nhân , học giả có danh tiếng cũng nhầm tưởng ngỡ ngàng , gây bàn cãi mãi không dứt …
Thế mới là Nguyễn Du ! …
Thường thường ông “tung” ra một vài từ ngữ ở một vài câu thơ nào đó làm người khác hiểu sai lệch ý ông , rồi ông lại “hứng” rất bí ẩn bằng hàng loạt câu thơ khác ở trước hoặc sau đó , có khi cả trước lẫn sau mà cách xa hàng chục , hàng trăm câu thơ .
Như thế , để thấy rõ ý nghĩa chữ “công” nêu trên , trường hợp này , phải khảo cứu ý nghĩa các câu thơ “hứng” : chừng hơn bốn mươi câu trước đó và hai câu sau đó nữa . Xin bắt đầu :
“Triều đình riêng một góc trời _ c 2441
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà”. _ c 2442
Hai câu thơ trên thể hiện thanh thế ngang ngửa , cân bằng của Từ Hải với triều đình nhà Minh ( Từ từng hùng cứ một phương đã hàng năm năm trời ) ; và nữa :
“Sức này đã dễ làm gì được nhau _ c 2470
Chọc trời khấy nước mặc dầu _ c 2471
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” _ c 2472
Ba câu thơ này chứng tỏ sức mạnh phi thường và chí khí , niềm tự tin của Từ Hải đủ khả năng đương đầu với triều đình nhà Minh trong mọi hoàn cảnh , ở mọi chốn , mọi nơi .
Như vậy , thanh thế , sức mạnh , tài trí của Từ Hải có thể coi là vô địch ,Tôn Hiến phải nhờ đến lời “Khéo khuyên …” của Thuý Kiều mới tiêu diệt được Từ Hải , thì công ấy của Thuý Kiều phải là công nhiều , công to , công đầu . Ngay chính Hiến cũng đã phải thừa nhận là nhờ công của Thuý Kiều hắn “mới nên” chiến thắng Từ Hải:
“Giúp công cũng có lời nàng mới nên”_C2544.
Từ công nhiều , công to , Nguyễn Du lại để Thuý kiều nói ngược lại với Tôn Hiến là “công ít” chính là mục đích riêng úp mở của ông.
Còn “tội nhiều” thì với triều đình nhà Minh , Kiều chỉ có công nhiều chứ không có tội gì cả . Ngay việc làm vợ một kẻ tội đồ thì đương nhiên trước khi gặp Kiều Từ Hải đã chống lại triều đình,chứ không phải Thuý Kiều lấy Từ Hải từ khi khởi nghiệp mà coi là tội đồng loã.
Đều là nói ngược lại , Nguyễn Du đã cố ý để Thuý Kiều nói trước mặt Hiến từ : không có tội ra “tội nhiều” .
Nếu nghĩ giản đơn thì đây là do hạn chế của chữ Nôm không có dấu ngoặc kép ( “…” ) nên Nguyễn Du không biểu lộ được ý văn từ theo ý mình ; hoặc nữa là ông đã mượn câu nói cửa miệng khiêm nhường qua quýt của người xưa khi đứng trước cửa quan để gán cho Kiều . ( Duy xét về hoàn cảnh : dòng dõi Dại quí tộc , với quan điểm tôi trung “Trên vì nước , dưới vì nhà” ( c 2683 ) và với quan niệm nhân ái theo đạo Phật “Hại một người cứu muôn người” ( c 2685) của ông , thì “công ít” , “tội nhiều” _ công , tội ở đây có lẽ Nguyễn Du nghĩ về mình _ nhân vật nói lên tâm tư của tác giả , chứ không phải công , tội của Thuý Kiều ) .
Song , suy cho cùng , thì có lẽ Nguyễn Du đã để Thuý Kiều nói với Hiến về “công ít” , “tội nhiều” đó của nàng chính là với Từ Hải :
Thuý Kiều đã có công đem hạnh phúc cho Từ Hải và là người tri âm , tri kỷ với Từ Hải , đặc biệt vô hình chung , nàng đã thôi thúc Từ lập được chiến công hiển hách để xứng đáng với người đẹp tâm giao như lời chàng tam đắc và hẹn nguyện :
“Từ rằng : Tâm phúc tương cờ” ( c 2179 )
và … “ Bao giờ mười vạn tinh binh (c 2221 )
Tiếng chiêng dậy đất , bóng tinh rợp đường ( c 2222 )
Làm cho rõ mặt phi thường ( c 2223 )
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” ( c 2224 )
Tuy nhiên , dù bất kỳ lý do gì kể cả vô tình : mà vì nàng dẫn đến cái chết của Từ Hải – một ân nhân đã cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh nhơ nhuốc , đưa nàng từ vị thế xấu xa nhất của xã hội mà theo quan niệm thời đó là “xướng ca vô loài” , là “bán thân nuôi miệng” , lên thang bậc chót vót là người có uy danh , uy quyền vào hàng đứng đầu thiên hạ _ nếu so sánh : thì cái công của nàng với Từ Hải là quá ít , còn cái tội đáng ân hận suốt đời , không thể sửa chữa được lại quá nhiều , quá to .
Luận “công ít” , “tội nhiều” như trên chỉ là chiết tự ( xin tạm coi là chiết tự Việt ngữ ) . Song điều đáng nói ở chữ “công” kỳ bí này là sự tường tận rất xác đáng đến “chân tơ kẽ tóc” của Nguyễn Du về mặt tâm lý xã hội :
Khác hẳn với Thanh Tâm Tài Nhân ,xây dựng nhân vật Hồ Tôn Hiến , Nguyễn Du đã dày công nêu bật bản chất : -“một tên quan nham hiểm” , đã :
“Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn”_c2456
nên hắn đã thực hiện mọi âm mưu mua chuộc Kiều , kể cả :
“Lại riêng một lẽ với nàng”_c2459
Đương nhiên Thuý Kiều không phải là con người vì lễ lạt của Hiến , song đây
– vừa là “thủ đoạn thâm độc” mà hắn tỏ ra thật lòng hứa hẹn ;
– vừa dẫu sao “tốt lễ dễ kêu” như dân gian thường nói , và Nguyễn Du lại rất cảm thông ;
-“một tên quan tiểu nhân” đắc trí , hắn không từ bất kỳ thủ đoạn xấu xa bỉ ổi nào kể cả đê hèn nhất là lừa dối một người đàn bà _ mà kẻ sĩ , người quân tử thời xưa rất trọng chữ “tín” dù phải đổi mạng cũng không làm điều vô liêm sỉ đó và dã man nhất là hắn đã sát hại không thương tiếc một tướng đã đầu hàng mà chính hắn đã coi là một con người đáng kính trọng :
“Biết Từ là đấng anh hùng” _ c 2455
Vì thế , với một Thuý Kiều gia giáo , trí tuệ của Nguyễn Du thì ngôn từ không thể thô thiển và nhất là nông cạn được như kẻ khác ( nhân vật khác ) . Hơn thế nữa , mục đích chính , “tối hậu nhất” của nàng là cần có một nấm đất chôn cất Từ Hải yên vị mà không bị Tôn Hiến phanh thây thị uy < điều rất kiêng kỵ cho gia chủ thời xưa ) :
“Xin cho tiện thổ một doi _ c 2561
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh” _ c 2562
Chữ nghĩa Nguyễn Du hơn người là như thế đấy !…
Thêm vào đó , trước uy lực kinh hoàng của Hồ Tôn Hiến mà chính mắt nàng vừa thấy :
“Ba bề phát súng , bốn bên kéo cờ” _ c 2514
… “Ầm ầm sát khí ngất trời ai đương _ c 2524
Trong hào ngoài luỹ tan hoang” _ c 2525
thì xem ra : tài trí , sức mạnh , binh quyền to lớn , ghê gớm như Từ Hải mà còn chịu chết đứng , huống hồ với một người đàn bà thân cô , thế cô lại đang nằm trong vòng kiểm toả của kẻ thù tàn bạo , thì lối nói năng của Thuý Kiều lúc đó là rất khôn khéo , tuy khiêm nhường nhưng lại bộc lộ thâm tâm nhận tội trước vong linh của Từ Hải , và chửi khéo Tôn Hiến , dẫu hắn có biết thì cũng chỉ tím mặt , bầm gan mà thôi , chứ không trị tội nàng được…
Mặc dù ngay trước mặt Tôn Hiến , Thuý Kiều ngang nhiên ca ngợi Từ Hải hết mức :
“Rằng : Từ là đấng anh hùng” _ c 2549
như thế khác nào Kiều đã chửi khéo Hiến rằng : Từ là đấng anh hùng thì dĩ nhiên ngược lại Hiến , một đối thủ , phải là kẻ tiểu nhân , mà quan niệm “tiểu nhân” thời xưa là vô cùng tồi tệ , hẹp hòi , ty tiện , sảo trá , đáng khinh bỉ .
Hơn thế nữa , vẫn trước ba quân ( “Quan quân kẻ lại người qua” _ c 2537 … “Đem nàng đến trước trung quân” _ c 2539 ) Thuý Kiều đã thẳng thừng vạch tội Hiến :
“Tin tôi nên quá nghe lời” _ c 2551
… “ Ngỡ là phú quí phụ vinh _ c 2553
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương” _ c 2554
Đây là một sự thật , một chân lý , là một bản án hùng hồn , đanh thép kết tội Hồ Tôn Hiến của Thuý Kiều , bởi lẽ : vì Từ Hải tin tôi , tôi lại tin ông , ai ngờ ông đại diện cho một chính thể , “… một phương diện quốc gia” _ trích câu 2591 – đã đem “bả vinh hoa” ra dụ dỗ một cánh đê hèn và hành động một cách dã man chưa từng thấy như thế .
Chưa hết , Thuý Kiều còn hằn học đay đả Tôn Hiến :
“Khéo khuyên kể lấy làm công _ c 2557
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu” _ c 2558
Như thế , chính Hiến đã kể công của nàng nhiều lần trước đó như câu điển hình 2544 , khiến nàng rất bực dọc , chứ nàng có nhận công đâu , mà chỉ nói là “Khéo khuyên…” _ song sự chua xót cực độ toát lên từ hai câu thơ trên như hình ảnh là Thuý Kiều đang sua tay bảo Hiến đại để : thôi thôi , ông đừng kể cái công ấy nữa , vì ông càng kể ra , tôi lại càng đau lòng về tội lớn với chồng do sự khờ dại nông nổi cả tin của mình ; ông càng kể công tôi , thì tôi lại càng căm thù ông tận xương tuỷ bởi sự hèn hạ , lừa bịp dã man của ông – kẻ tráo trở , quân phản bội !
Như vậy , một lần nữa xin lưu ý là : đọc một chữ “công” tung ra ở một câu thơ , tóm lược ý nghĩa một số câu thơ hứng trước và sau đó mới thấy rõ Nguyễn Du để Thuý Kiều nói “công ít” , “tội nhiều” trước mặt Hồ Tôn Hiến , trước mặt ba quân tướng sĩ triều đình là rất thâm thuý , không có gì đáng chê trách cả vì nó vừa đạt được ý đồ tâm linh từ đáy lòng nàng là nhận tội lỗi trước vong linh chồng , vừa thực hiện mục đích chính là xin được đất chôn cất chồng yên vị “toàn thi thể” , lại vừa xoa dịu khôn khéo để thực hiện một bản án tố cáo : một kẻ thù đang ngự trị quyền uy sinh sát , một tên quan đại diện cho một chính thể , một quốc gia , một chế độ xã hội tàn bạo đương thời , với những lời lẽ sâu sắc cay độc – nàng đã “đổi bại thành thắng”.
Chỉ có chữ nghĩa của Nguyễn Du mới diễn tả , diễn đạt được mọi mặt sâu xa như thế : không chỉ riêng Thuý Kiều phải ngẫm nghĩ để biết nói lên điều đó , mà ngay đến chúng ta ở thời đại văn minh cũng phải nghiền ngẫm kỹ lưỡng mới gọi là hiểu được chút ít ý ông.
Quả thật chữ “công” mà là “công ít” , “tội nhiều” của Nguyễn Du rất tài tình , kỳ bí – vỏn vẹn chỉ ở một câu thơ , với chỉ một chữ thôi , khiến bao đời , bao bậc văn tài ngẫm ngợi khôn cùng :
“Ngẫm mình công ít tội nhiều”
*
* *
Đọc thêm mới hiểu một điều sáng soi:
“Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.”
*
* *
Nguyễn Du quả thật tài tình!…
…
…Xin kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương trước vong linh thi sĩ Tản Đà tài hoa . Rất trân trọng và chân thành cảm tạ công đầu mà Ngài đã dày công lao phát hiện , thắc mắc , giảng giải giúp hậu sinh chúng tôi nhờ đó mới tìm hiểu thêm về chữ nghĩa thâm thuý của Đại Thi Hào Nguyễn Du và học hỏi được nhiều điều…
Xin trân trọng và chân thành lĩnh hội sự chỉ giáo của bạn đọc mọi mặt…
10/2012
Kính
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
TV:_Bài này không đề cập tới phương diện nghệ thuật . Và không nêu bật ý nghĩa chữ “Ngẫm” hơn hẳn các chữ : “Xét” , “Thấy” , “Nghĩ” _ ở đầu câu thơ 2559 _ mà theo tôi không Nguyễn Du.
_Tôi xin trình bày tới đây về từ “sàm sỡ” ở câu thơ Kiều thứ 458 và từ : “Đề huề” ở câu thơ Kiều thứ 37 , 278, và 532 .
Xin lỗi bạn đọc ở bài thứ 13 bổ khuyết tại câu : … Nguyễn Du lại rất cảm thông ( “Lễ nhiều nói ngọt , nghe lời dễ xiêu” _ c 2474 … “Nở nang mày mặt , rỡ ràng mẹ cha” _ c 2482 )
Bài viết thứ tư :
Sự “tam sao thất bản” ngữ nghĩa rất đáng kể trong thơ Kiều của Nguyễn Du .
( Xét hai từ : “sàm sỡ” và “đề huề” )
Đại thi hào của chúng ta mất năm 1820 , thế mà phải 46 năm sau , mãi đến năm 1866 , chúng ta mới có được bản Kiều Nôm gọi là cổ nhất , nên không tránh khỏi “tam sao thất bản”.
… Có được bản Kiều của Nguyễn Du tương đối đầy đủ như ngày nay cũng là quí giá lắm rồi , và vô cùng biết ơn các bậc tiền bối đã dày công khảo cứu cho chúng ta được thấm nhuần , ngưỡng mộ về kiệt tác có một không hai này.
Xin dẫn và so sánh một vài tư liệu , có trình bầy quan điểm riêng của mình ở hai từ: “sàm sỡ” và “đề huề”có lẽ bị “tam sao thất bản” ngữ nghĩa để bạn đọc tham khảo :
Về từ “sàm sỡ” ,
theo tôi biết là trong Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân thì khi Kim Trọng bờm sơm Thuý Kiều , đoạn này sách viết : “…Trọng say động lòng dục dở thói xuân tình sàm sỡ… ” , như thế thì “sàm sỡ” ở đây là hợp lẽ , tuy văn từ có thô thiển.
Nhưng ở câu thơ thứ 458 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , lại viết :
“Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ? ”
thì “sàm sỡ” ở câu thơ này xem ra không hợp lẽ.
Nguyễn Du thường gọt dũa từ ngữ rất chuẩn mực bất kỳ ở văn từ nào , nên có lẽ vì người khắc chữ , in ấn sai do nguyên nhân là cứ dựa vào từ “sàm sỡ” của Thanh Tâm Tài Nhân , không tìm hiểu văn chương khác nhau ra sao?
Và nếu lại ngẫm nghĩ suy xét kỹ thì : tuy thuộc loại văn chương bác học , song Nguyễn Du lại thường vận dụng nhiều điều dân dã vào thơ Kiều , như ông đã chỉ rõ :
“Lời quê chắp nhặt dông dài ” _ c 3253
nên có lẽ ông đã dùng từ nhàm nhỡ vì nó là lời nói cửa miệng của người nhà quê thời xưa (“chỉ nhàm nhỡ thôi!”)
Nhàm : là nói nhàm , nói sạo , nói cho qua chuyện , nói để đấy , không tin được ; còn :
Nhỡ : là làm nhỡ dở sự việc ; ở đây là làm nhỡ dở đời người con gái , vì : Kim Trọng biết Thuý Kiều đã hàng năm trời rồi ( “Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua” _ c 370 ) , vả lại Kim , Kiều đã cùng nhau đính hôn thề thốt ( “Rằng : – “trăm năm cũng từ đây” _ c 355 … “Tiên thề cùng thảo một chương” _ c 447 … “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” _ c 452 ) thế mà cứ “lần khan” mãi , không tỏ rõ “hành động con trai” thì không phải thực lòng , chỉ là nói nhàm , chỉ để nhỡ nhàng , nhỡ dở người ta thôi . Dù sao đi nữa , dù bất kỳ lý do nào , dẫu suy luận về từ kiểu gì , thì rõ ràng ở đây trường hợp này , từ ‘nhàm nhỡ’ vẫn hợp lẽ hơn từ “sàm sỡ” . Như thế câu thơ đó có lẽ Nguyễn Du viết là :
Sợ lần khân quá ra nhàm nhỡ chăng ?
Rất tâm lý … , lại còn rất tế nhị , rất nho nhã , khác hẳn với Thanh Tâm Tài Nhân , Nguyễn Du đã cho Kim Trọng lấy một lý do chính đáng để “lả lơi” Thuý Kiều .
*
* *
Về từ “Đề huề”
ở câu thơ thứ 137 :
“Đề huề lưng túi gió trăng”
biểu thị vẻ ung dung , thư thái , thong dong đi chơi hội của một thư sinh nho nhã , nhà giàu nên : “Đề huề…” ở đây là hợp lẽ . Và cũng tương tự như thế , ở câu thơ thứ 278 :
“Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang .”
thể hiện sự phấn chấn , thanh thản , đàng hoàng tâm tư nhẹ nhõm của Kim Trọng khi tìm được nhà trọ đúng ý nguyện , hợp hoàn cảnh , ở mé sau nhà Thuý Kiều ( để : “Tường đông nghé mắt ngày ngày hằng trông” _ c 284 ) , nên : “đề huề” ở đây cũng là hợp lẽ .
Song , riêng câu thơ thứ 532 là :
“Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề .”
thì từ “đề huề” ở đây theo tôi là không hợp lẽ _ bởi vì : khi có người thân qua đời dù ở ngay tại nhà mình đã là “tang gia bối rối” thế mà như văn cảnh của Nguyễn Du thì chú ruột Kim Trọng đã mất mà vẫn còn quàn ở Liêu Đông , cách xa quê nhà , hẳn sự đó lại càng thêm bối rối ,chứ không thể gọi là đề huề được . ( Ý này Nguyễn Du sâu sắc hơn Thanh Tâm Tài Nhân viết đại ý là linh cữu đã đưa về quê rồi ) _ Đây có lẽ vẫn là do lỗi in ấn , ghi chép , lại một nguyên nhân sơ đẳng là theo cảm tính cứ dựa vào từ “đề huề” ở hai câu thơ thứ 137 và 278 trước đó , nên nghĩ rằng ở câu thơ thứ 532 này cũng như vậy thành ra lại dễ dãi dập khuôn mà không suy xét ngữ nghĩa ra sao ở mỗi chỗ khác nhau . ( Nếu xét riêng hoàn cảnh của Kim Trọng lúc bấy giờ thì : Như nghi lễ thời xưa coi trọng “chú cũng như cha” , nên sự chú mất là rất hệ trọng , buộc lòng Kim Trọng phải đi đưa linh cữu từ Liêu Đông về quê nhà ; … còn tình yêu đến với Thuý Kiều mà Trọng đeo đẳng mãi , rất dày công , lại mới vừa được thề nguyền rất đắm say , thì đây cũng lại là điều vô cùng nan giải ; trước sự thể đôi đường rắc rối như thế cũng không thể coi hoàn cảnh này là “đề huề” , đàng hoàng được ) .
…Ngoài ra , thậm chí có nhà nho nào đó thấy từ “đề huề” ở câu thơ này không hợp lẽ lại cũng dễ dãi nốt , đã thay đổi cả một đoạn thơ khác : mang tính kể lể , lủng củng , chữ nghĩa vụng về , tầm thường , hoàn toàn không đúng với lối thơ văn ý nhị của Nguyễn Du . Xin trích dẫn ở trang 192 sách Truyện Kiều _ Hà Huy Giáp giới thiệu , Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích . Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp _ Hà Nội 1973 :
“Khảo dị
531-534 Bản KOM đã theo bản Kinh chép bốn câu này thành sáu câu :
Mở xem thủ bút nghiêm đường ,
Nhắn rằng : “Thúc phụ xa đường mệnh chung .
“Hãy còn kỷ táng Liêu _ đông ,
“Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khê .
“Rày đưa linh thấn về quê ,
“Thế nào con cũng phải về hộ tang” ( K23 ) ”
Vẫn như quan điểm nêu trên là chữ nghĩa của Nguyễn Du rất chuẩn mực , ông lại rất giàu từ , kể cả sáng tạo mới , thì không lẽ nào ông lại viết như thế , có lẽ ở câu thơ đó Nguyễn Du đã dùng từ “bộn bề” chứ không phải là “đề huề” :
Bơ vơ lữ thấn tha hương bộn bề .
Kính thưa bạn đọc , kính thưa các vị có trách nhiêm , nếu những điều tôi trình bày trên là hợp lẽ , thì theo tôi nghĩ đã đến lúc không nên đánh đồng tài trí của một bậc Đại thi hào dân tộc , một danh nhân văn hoá thế giới như những người khác với văn thơ _ vì đây là thước đo chuẩn mực của nhân loại văn minh .
Do đó , không lẽ cứ mãi mãi chấp nhận song song tồn tại sự nhầm lẫn của người khác ( chỉ vì lý do không có bản gốc ) ở thơ Kiều của Nguyễn Du , như các từ : “sàm sỡ” , “đề huề” , hoặc đoạn thơ vô duyên đươc khảo dị nêu trên , làm lăn tăn đến danh tiếng một bậc kỳ tài ( dù mù không thể nhoà được mưa ) .
Vì vậy , chúng ta nên chăng chỉnh sửa với tâm huyết , vô tư những sai sót đó , để đúng ý tứ của Nguyễn Du , mà theo tôi cũng là tấm lòng thành kính tri ân , dâng lên Ngài ; và để lớp trẻ ngày nay và mai sau dù không biết sự , cảnh thời xưa , cũng có thể thấm nhuần chân giá trị của thơ Kiều .
Kính mong bạn đọc tham khảo chỉ giáo .
Xin trân trọng cảm ơn ! …
( Do phải chi phối thời gian , tôi xin mạn phép trình bày dần những bài viết khác về những tìm hiểu tương tự nêu trên trong nhiều câu thơ khác ở Truyện Kiều của Nguyễn Du , và các bài :
-Bản gốc Truyện Kiều của Nguyễn Du tìm ở đâu ?
-Hiểu thế nào cho đúng ý nghĩa câu ca dao bất hủ :
“Muốn sang thì bắc cầu kiều ,
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”.
Rất mong sự chiếu cố của bạn đọc … )
Tháng 12 – 2009 .
Kính
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương .
TV : những trích dẫn đều tôn trọng nguyên bản kể cả các dấu , đúng sai không phải do người viết .
Bài viết thứ 14: Thơ “phỏng dựa” và những “cảm nhận” bài thơ: “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến của thi sĩ tài hoa TẢN ĐÀ.
Quan điểm của mỗi người mỗi khác về điều này, điều nọ…,
Ý thích của mỗi người cũng khác nhau…
Tôi rất kính trọng danh giá và tài trí của nhà thơ Nguyễn Khuyến, cùng với những bài thơ hay của ông, nhưng lại không hào hứng về bài thơ “Thằng Bán Tơ”; ngược lại tôi rất thích thú với bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” của thi sĩ tài hoa Tản Đà – cùng nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du.
CẢM PHỤC bài thơ hay đó về chữ nghĩa, nhưng không đồng nhất quan điểm của ông, đã đánh giá Thúy Kiều là con người dễ “thay lòng đổi dạ”, thậm chí còn “quá kiên tâm” kể cả vào hoàn cảnh cùng một lúc: đau thương vẫn hát xướng; mà tôi theo quan điểm của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã vượt qua thời đại, bỏ qua quan niệm nho giáo, ông mượn “số trời” của đạo Phật, coi hành sử của Thúy Kiều là do hoàn cảnh bắt buộc; “số phận” nàng phải thế, rất đáng thương tâm; (và như bài viết thứ 13 tôi đã nêu: Thúy Kiều căm hờn Tôn Hiến), nên có bài thơ phỏng dựa để bạn đọc tham khảo chỉ giáo như một món ăn tinh thần suy nghĩ về tài làm thơ giầu ý, nhiều tứ của người xưa:
Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến
Tiếng sấm ân tình bố bể ran
Tương quân chi tiếc cánh hoa tàn
Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng
Nửa đám ma chồng nửa tiệc quân
Tổng đốc ví thương người bạc phận
Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan
Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ
Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn
TẢN ĐÀ 1927
Phỏng dựa bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến”
“Sét đánh ngang tai”, nỗi kinh hoàng!
Hồ công ảo tưởng “cánh hoa tàn”.
Khóc chồng khôn xiết hai hàng lệ…
Chịu ép tiệc quan để trọn tang.
Tổng đốc “dẫu” thương Kiều mệnh bạc,
Tiền Đường “vẫn” chắc mả hồng nhan.
Thương ôi! nấm đất-lòng chung thủy,
Từ Hải linh thiêng thấu giọng đàn.
Nhiên Hương T11/2012
CẢM NHẬN bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” của thi sĩ tài hoa Tản Đà:
Nếu thoáng đọc bài thơ này ta chỉ dễ nhận ra điều ông “ví” và nói là “chưa chắc”, còn nếu ngẫm nghĩ từng chữ, từng câu mới thấy cái “thần” của bài thơ với ý, tứ rất sâu xa, ông đã chơi chữ, chơi nghĩa, “ngôn tại ý ngoại”.Hầu hết các câu thơ trong bài thơ, ông đều nêu bật: tự thân và hành sử của Thúy Kiều cùng một lúc: có tương tác hoặc tác động đến cả hai người đàn ông là Từ Hải và Tôn Hiến, không chỉ hiện tại mà cả dĩ vãng: “Tiếng sấm ân tình bốn bể ran” của ông, đã ngầm biểu hiện sức mạnh và tình nghĩa của Hải, của Hiến ảnh hưởng đến Kiều:
_ “Tiếng sấm… bốn bể ran” của Từ Hải, là:
“Ngất trời sát khí mơ màng_c2251
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh”_c2252
…“Chọc trời khuấy nước mặc dầu _ c2471
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” _ c2472
_ “Ân tình” của Từ Hải, là:
Từ đã đưa Thúy Kiều từ lớp người bị xã hội khinh rẻ nhất, lên bậc thang danh vọng, quyền uy cao nhất.
Còn Tôn Hiến thì sao?
_ “Tiếng sấm… bốn bể ran” của Tôn Hiến, là:
“Ầm ầm sát khí ngất trời, ai đương” _ c2524
_Và “ân tình” của Tôn Hiến, là:
Hiến đã không giết Thúy Kiều, vợ của đối thủ; vợ của kẻ thù triều đình, điều lớn nhất, hệ trọng nhất với hắn; mà lại còn cho nàng được chôn cất chồng toàn thi thể; không những thế hắn còn định tình tự với nàng.
Với sự khinh rẻ “cánh hoa tàn” của Tản Đà thì:
– Thúy Kiều không chỉ khiến Từ Hải dù đã chết vẫn còn luyến tiếc nàng, phải chờ đến khi Kiều phục dưới chân khóc lóc thì Từ mới đi hẳn (và dù rằng Từ còn uất ức căm hờn Hiến, cùng vì Từ quá tin Kiều khuyên).
– Và cũng vì “cánh hoa tàn” ấy, đã khiến Tôn Hiến phải lưu luyến, ham muốn, không chỉ là:
“Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han” _ c2540
mà lại còn ngây dại: “Nghe càng đắm, ngắm càng say _ c2579
Lạ thay mặt sắt cũng ngây vì tình _ c2580
Dạy rằng: “Hương lửa ba sinh _ c2581
Dây loan xin nối cầm lành cho ai!” _ c2582
( “Tương quân chi tiếc cánh hoa tàn” )
Hơn thế nữa, “đôi làn sóng” khuynh thành của Thúy Kiều cũng không chỉ khiến Từ Hải tan tành sự nghiệp đế vương ra mây khói và phải bỏ mạng thương đau mà còn khiến cho Tôn Hiến phải phiêu diêu:
“Nghĩ mình phương diện quốc gia_c2591
Quan trên trông xuống người ta trông vào”_c2592
( “Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng” )
Vẫn chưa buông tha, Tản Đà còn chua chát, như ý rằng: lạ thay cùng một lúc với hai sự kiện rất trái ngược nhau- Thúy Kiều vừa lo đám ma chồng mà lại vẫn có thể đàn hát vui thú ở tiệc quan( riêng Nguyễn Du thì khác hẳn, ông đã cám cảnh, thương tâm bằng: “ Một cung gió thảm mưa sầu”_c2569).
( “Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan” )
Và với quan niệm đương nhiên của những nhà nho thời đó, Tản Đà cũng na ná như Nguyễn Công Trứ , ông đã cho rằng Thúy Kiều từng đắm say yêu đương Kim Trọng thề thốt đủ điều ; thế mà bỏ Trọng, nàng đã mặn nồng gắn bó nghĩa vợ, tình chồng mê mệt với Thúc Sinh: “Miệt mài trong cuộc truy hoan”_c1299; bỏ Thúc Sinh nàng lại dễ dàng hòa hợp và nồng nàn chan chứa tình ái với Từ Hải: “Hai bên ý hợp tâm đầu”_c2205 và “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”_c2212. Căn cứ vào diễn biến như thế, nên theo Tản Đà thì nếu Tôn Hiến thương hẳn, chắc rằng Thúy Kiều cũng yên phận tỳ thiếp chứ không tự tử:
“Tổng đốc ví thương người bạc phận
Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan”
… Tài chơi chữ của Tản Đà còn ở chỗ ông đã mượn hai chữ “ trơ trơ” của Nguyễn Du trong câu thơ thứ 2528 để so sánh là: – lúc đó Thúy Kiều thương xót Từ Hải hết chừng mực “Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ”, rồi lại đến mức “Thà liều sống chết một ngày với nhau”- c2532 – còn lúc này thì nàng chỉ mê mải phục vụ “tiệc quan”, không dòm ngó gì, không biết đến mộ phần Từ Hải đang đơn độc, trơ vơ:
“Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ”
Ở câu thơ kết: “Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn” vẫn nêu lên cùng một lúc về “ảnh hưởng” của Thúy Kiều với hai người đàn ông ấy, song ông lại còn thâm trầm chua xót, ý rằng: hồn Từ Hải liệu có nghe thấy những mấy giọng đàn không?- giọng với mình khi còn sống và giọng với Tôn Hiến lúc này. Thật trớ trêu thay!…
…Tản Đà tuy không vượt qua quan niệm thời đại nhìn nhận về thân phận nàng Kiều như Nguyễn Du với bút pháp tuyệt đỉnh, tri thức tuyệt vời; song chữ nghĩa của ông, ý tứ của ông, hình tượng ông nêu lên trong bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” này quả là trác tuyệt cùng năm tháng…
Thơ thì hay thật là hay,
Xem ra dụng ý chua cay thế nào?
Trung tuần tháng 11-2012
Nguyễn văn vị Nhiên Hương
TV:
_ Câu thơ thứ hai theo tôi hai chữ đầu là: “Tương quân” gồm hai người đàn ông (Từ Hải và Tôn Hiến) thì phù hợp với sự tài tình của toàn bài thơ, chứ nếu là “Tướng quân” như một số bản viết thì chỉ nêu một mình Tôn Hiến và câu thơ có lẽ không ý nhị hòa đồng cùng toàn bài thơ.
_ Câu thơ kết có chữ “nghe” xem ra sát ý; nếu là chữ “hay” thì mang tính thơ hơn, không biết bản gốc thế nào?
Bài viết thứ nhất Văn học dân gian Tìm hiểu nguồn gốc của thành ngữ: “Môn đăng – Hộ đối” Con người ta biết rõ được cội nguồn Tổ Tông là lẽ sống. Chữ nghĩa hiểu biết được nguồn gốc thì thâm sâu, lý thú… Câu thành ngữ: “Môn đăng Hộ đối” cũng với ý nghĩa đó.
Nếu chỉ “tầm chương, trích cú” để định hình, định nghĩa từng chữ như kiểu: “đăng” cũng là “đương” là “đang” hay là “đèn”… thì không đem lại lợi ích gì về sự hiểu biết nguồn gốc và giá trị của thành ngữ này, mà chỉ tốn “giấy mực”, công sức vì thế có nên theo lời dạy của vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi thì hữu ích hơn chăng?- “Đọc sách phải thông đòi nghĩa sách”.
… Và nếu chỉ cần hiểu thành ngữ này ở sự tương quan về mọi mặt giữa hai bên gia đình và đôi trai gái, với “xứng đôi, phải lứa”… thì người không biết chữ cũng rõ điều đó.
… Khác với văn chương bác học là chỉ cần đọc biết một số sách, về: từ ngữ, kinh điển, tích cố… là đủ giảng giải các câu chữ này, nọ.
Còn văn học dân gian thì cái khó hơn cả là cần biết cách tổng hợp không chỉ là kiến thức ở nhiều loại sách khác nhau, mà còn am hiểu ngay cả ở thực tế đời sống dân giã thời xưa mới giảng giải được ngọn nghành về “chữ” với “nghĩa”, mới thấy hết tinh hoa dân tộc. .
Vậy nguồn gốc của thành ngữ: “ Môn đăng- Hộ đối có từ đâu”?
Tuy mang Hán tự, nhưng thành ngữ này đã được Việt hóa dân dã chuyên nghành xây dựng, nên trước tiên văn bản phải trình bầy theo Việt Ngữ mới suy xét đúng nghĩa lý của nó: “Môn đăng- Hộ đối”
Chữ “Môn”: là cửa chính hay cổng, thường có hai cánh, ở thành ngữ này là Đại Môn.
Chữ “Đăng” : ở thành ngữ này mang ý nghĩa trình bầy chứ không thể hiểu khác được, hay theo chiết tự Hán nôm; Như thế: ở “cửa” này có nghĩa là trình định kích thước của Đại Môn theo tâm linh; còn nếu ở chuyện lấy vợ, lấy chồng thì điều mặc nhiên là trình bầy, hoặc nêu lên gia cảnh tốt đẹp của bên trai hay bên gái.
Chữ “Hộ”: là cửa phụ, cũng có nghĩa là căn hộ đó, ngôi nhà đó. Cửa này thường có một cánh .
Chữ “Đối”: ở thành ngữ này là sự đáp trả phù hợp, cân chỉnh; cũng không thể hiểu khác được như “đối đáp”,hay “câu đối”… vì thế: ở “cửa” thì cần hiểu là: kích thước của cửa phụ phải cân chỉnh với cửa chính cũng theo tâm linh; còn nếu ở việc lấy vợ, lấy chồng thì là sự so sánh mang tính chất đáp lại tương đối cân bằng về mọi mặt của bên gái hoặc bên trai, được mặc nhiên thể hiện hay nêu lên sự: tốt, đẹp, hay, dở…
Xin đi sâu vào thành ngữ này về phương diện tâm linh mới thấy rõ khởi nguồn của nó.-¬¬¬
Theo thuyết Địa Lý Phong Thủy phương Đông thì khi xây cất các công trình nhất là nhà ở, ông cha ta buộc phải xét tới hai điều mang tính chất “tâm linh”:
Thứ nhất là: phải căn cứ vào tuổi của trạch chủ để tính toán chọn hướng nhà cửa.
Thứ hai là: phải xác định kích cỡ của từng loại cửa cho phù hợp Địa Lý Phong Thủy để hy vọng tạo lên sự hưng thịnh cho trạch chủ và các thành viên trong nhà không chỉ hiện tại mà cả tương lai..
Để đo đạc xác định kích thước các cửa cho đăng đối, người xưa đã có bốn loại thước khác nhau: Tỷ Phòng, Khúc Xích, Lỗ Ban, Huyền Nữ Xích, nhưng thường thường cho đến ngày nay vẫn dùng là thước Lỗ Ban với các chỉ số “huyền bí tâm linh”, tính toán quy định theo “tám” chữ khác nhau: TÀI, NGHĨA, QUAN, BỔN, BỆNH, LY, KHIẾT, HẠI.
Phạm vi bài viết này không đi sâu vào các loại thước đó với cách tính toán kích cỡ các cửa, mà chỉ xin đơn cử ý nghĩa tâm linh về sự lựa chọn kích thước cửa chính và một loại cửa phụ . Xin trích dẫn nguyên văn điều này ở một loại sách Địa Lý Phong Thủy:
-Đại Môn :
“ Chữ Nghĩa rất tốt lành ứng với cửa Đại Môn đón tiếp vì nó là bộ mặt của trạch chủ ăn ở cư xử với ngoại nhân có nghĩa, có nhân, không lường gạt, tráo trở. Trái lại chữ Nghĩa rất kỵ ở các cửa hành lang vì đây là lối qua lại thông thống của người trong nhà. Do đó, sợi dây nghĩa tình không thể buông thả tự do. Nhưng chữ Nghĩa lại rất tốt cho cửa nhà bếp vì đây là nơi nấu nướng cung cấp đồ ăn thức uống cần phải dồi dào cho sự quảng đại nghĩa tình lo lắng cho sự phúc lợi của gia đình Việt Nam thường nói ăn, ở, phải có nghĩa là do ý này”.
-Cửa Buồng :
“Chữ Quan rất kỵ ở cổng lớn ra vào để tránh tình trạng kiện tụng ở cửa quan quyền. Nhưng trái lại ở các cửa buồng riêng lại rất tốt vì sẽ sinh quý tử”.
Như thế ở thành ngữ này:
Thứ nhất về “chữ” với “nghĩa”: thì ngay tự thân chữ “Môn” và chữ “Hộ” đã chỉ rõ là hai loại cửa: cửa chính và cửa phụ…
Thứ hai về thẩm mỹ: Vì chữ “Hộ” còn có nghĩa là căn hộ đó, ngôi nhà đó, nên còn biểu lộ là hai loại cửa chính phụ này cần phải cân chỉnh với ngôi nhà ấy, tuy có phần tâm linh nhưng chủ yếu vẫn là về mặt “thẩm mỹ” .
Thứ ba về mặt tâm linh là điều chính yếu:
Đặc biệt sự “đăng đối” giữa cửa chính và các cửa phụ phải theo thuyết Địa Lý Phong Thủy tâm linh như “tám” chữ nêu trên.
Căn cứ vào ba lý do đó xét thấy câu thành ngữ “Môn đăng- Hộ đối” có nguồn gốc từ việc xây cất nhà cửa.
Nhưng sau này do sự “đăng đối” giữa các loại cửa đã thành quy tắc được tuân thủ nghiêm ngặt, bởi ngày xưa việc làm nhà là rất trọng đại ( một trong ba việc lớn của đời người là: lấy vợ, làm nhà, tậu trâu) nên trước khi xây cất, người ta phải mời thầy Địa Lý Phong Thủy xem,soi mọi mặt; lại có sách ghi chép tỷ mỉ lưu truyền và người thợ xây, thợ mộc nào cũng dùng thước Lỗ Ban để thống nhất kích cỡ từng loại cửa với chủ nhà; nghĩa là: có sách, có thầy, có thợ để xác định sự “đăng đối” của các loại cửa, nên người ta không cần nói đến thành ngữ này trong việc xây cất nhà cửa nữa.
Tuy nhiên từ, tính chất gốc gác: hệ trọng tâm linh giữa các loại cửa nêu trên, cộng với quan niệm phong kiến “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa” và mặt khác do tính sĩ diện: danh giá, bề thế gia cảnh bản thân và đôi bên gia đình, giòng họ của trai hay gái, cần “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” không chấp nhận “đũa mốc đòi tròi mâm son”, nên thành ngữ: “Môn đăng – Hộ đối”
chuyển hẳn chỉ dùng cho việc xây dựng gia đình với tâm lý xã hội mang mục đích so sánh, cân nhắc, kén chọn, khen chê về mọi mặt: kinh tế, chính trị, địa vị, chức tước, văn hóa, tuổi tác .
.
Đó là những nguyên nhân dẫn đến thành ngữ: “Môn đăng- Hộ đối” dù nảy sinh từ việc xây cất nhà cửa lại bị lãng quên, chỉ còn dùng trong việc xây dựng gia đình.
Thế mới biết nguồn gốc của thành ngữ này hiểu biết được không đơn giản, mà thật lắt léo: “Văn thơ có bẩy, ba đường, Suy sâu, hiểu rộng tỏ tường mới nên… Tháng 1_2013
Nguyễn Văn vị Nhiên Hương
TV:_ Thâm sâu: Thâm thúy và sâu sắc _ Vì trích dẫn nguyên văn trong sách Địa Lý Phong Thủy không lược bỏ, chỉnh sửa văn từ nên: cửa Đại Môn ( thừa chữ cửa).
_ Xin trình bầy sau, bài viết: Tìm hiểu ý nghĩa về nguồn gốc câu ca dao: “ Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” _ Kính mời các quý vị xem trang: vonga1.wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/ tôi có viết một số bài phản hồi về những điều Tản Đà chê thơ Kiều, và cảm nhận bài thơ hay của Tản Đà “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến”.
KIỂM CHỨNG bút tích và danh tính người làm bài thơ:
“RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC”, hay là:
Có nên truy cứu tác giả bài thơ đó không?
Vì tôi thường tìm hiểu tận cùng nguồn gốc, ý nghĩa thơ văn xưa và nay, nên may mắn được người bạn thích điều đó, đã cắt cho hai bài cùng in trên báo Văn Nghệ Công An: số ra ngày 1- 4- 2013 của Trần Nhuận Minh, và số ra ngày 15- 4- 2013 của Chử Văn Long, nói về bài thơ: “Rắn đầu biếng học”, và chưa xác minh được tác giả; dù cả hai ông đều đã có rất nhiều công sưu tầm, trăn trở. Thậm chí Trần Nhuận Minh với lập luận gồm ba điều đại ý- Một là: Không thấy Lê Quý Đôn viết bài thơ đó ở bất kì đâu. Hai là: Ông cho rằng không có rắn hổ trâu. Ba là: Hai chữ Trâu Lỗ ở câu thơ thứ bẩy là chỉ quê hương Khổng tử và Mạnh tử nên nếu bài thơ này là của Lê Quý Đôn thì chẳng lẽ ông lại quá hỗn hào với bố, dám tự xưng mình là: “… CỤ TỔ CỦA BỐ xin siêng học ”.
Do đó Trần Nhuận Minh cho rằng: “… đây là bài thơ đời sau làm được truyền tụng trong dân gian rồi gán cho Lê Quý Đôn…” vô tình làm hại đến gia phong họ Lê vì coi thường đạo lý nho giáo nhất là bố ông đang làm ở Bộ Lễ với chức vị “Thiêm sai Đông các hiệu thứ ”, thì không thể tha thứ điều đó được.
Những điều này tôi xin phép bàn luận ở phần sau, còn có lẽ điều cần thiết hơn cả, theo tôi rằng:
Do đây là bài thơ cổ, cách chúng ta trên dưới 280 năm, vì thế: nếu ta không được các cụ nhà nho cách chúng ta trên 100 tuổi chỉ bảo thì sẽ không biết được ý tứ, văn từ cổ, dễ dẫn đế hiểu sai lệch sự thật thời xưa và không thấy hết tài ba xuất chúng của tác giả ngay tuổi nhỏ, làm giảm bớt giá trị tuyệt đỉnh của bài thơ này.
( Hồi nhỏ tôi được ông nội sinh năm 1899, là nhà nho uyên thâm nổi tiếng trong vùng, cụ am hiểu chính xác trước về thời cuộc, được dân địa phương gọi là thánh sống đã đọc bài thơ đó và giảng giải, theo tôi thì có tính thuyết phục hơn cả so với những bản viết bây giờ do thấy nhiều từ mới lạ, kiên cưỡng quá! )
Vì thế, tôi xin trình bày căn nguyên bài thơ: “ Rắn đầu biếng học ” này đúng như văn từ cổ, không sai một chữ mà tôi đã thuộc lòng nhớ như in từ rất lâu rồi, để bạn đọc tham khảo:
“ Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học nhẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen nhời lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vết năm ba
Từ nay trâu lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia ”
Về nội dung và nghệ thuật bài thơ “ Thất ngôn bát cú ” này rất nhiều người đã nêu rõ, tôi chỉ xin trình bày sự chuyện, ý tứ, văn từ cổ, để chúng ta cùng xem xét:
Ở câu thơ đầu có chữ “ cũng ” (“… cũng giống nhà ”) , mới đúng với cách nói của người xưa, ví như- để răn dạy con cháu, các cụ nho gia thường bảo đại ý: Muốn làm gì thì làm cũng phải nghĩ đến thanh danh nhà mình!
Nay thay chữ “cũng” bằng chữ “vẫn” nghe công thức, cứng nhắc.
Ở câu thơ thứ hai có chữ “nhẽ ” (“… nhẽ không tha”) có nghĩa là: đáng ra, đáng lẽ không thể tha thứ tội lỗi đó được!
Chữ “nhẽ ” xưa gần giống ý chữ “lẽ ” ngày nay, nhưng khúc chiết hơn, ngữ điệu mạnh mẽ hơn, vả lại còn tách bạch ý nghĩa giữa hai chữ này, vì:
Chữ “nhẽ ” hòa nhập cụm từ ở câu thơ thứ hai biểu thị sự phải trái; nhưng cũng có khi lại mang tính so sánh hơn thiệt, như: đáng nhẽ phải làm thế này… có lợi hơn thế kia… ,vv.
Còn chữ “lẽ ” xưa biểu lộ số thêm, số sau, như: lấy vợ lẽ, làm lẽ vv.
Nay thay chữ “nhẽ ” bằng chữ “quyết ” (“… quyết không tha ”) hay chữ “ắt ” (“… ắt không tha ”) thì đều mang tính khẳng định hoặc hô khẩu hiệu, và như thế phải là lời quát nạt của người bố (ông Thứ) chứ không phải là tâm sự của người con (cậu ấm Đôn).
Câu thơ thứ năm có “… chỉ quen… ” là: lúc nào cũng quen thói như thế,- “… chỉ quen nhời lếu láo ” nghĩa là thường xuyên lếu láo, nó đã thành thói quen rồi ( các cụ xưa chửi con cháu đại ý: Mày chỉ quen nói lếu, nói láo, ráo hoảnh ).
Chữ: “nhời ” giống như chữ lời ngày nay, nhưng nó mang nghĩa tình thấm đậm (“nhời ăn, tiếng nói ” hay: “chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử nhời ”)
Song, điều đáng nói hơn cả ở câu thơ này là- người xưa dùng chữ rất ý tứ “tiền hậu như nhất”: ở đây đầu câu dùng chữ “mép” thì tiếp sau phải là chữ “nhời”, vì đều từ miệng cả; chứ không “tiền hậu bất nhất”, đầu đuôi khủng khoẳng như hầu hết các bản viết ngày nay, đó là: đầu thì viết chữ “mép” (ở mồm) sau lại viết chữ “tuồng” (cái trò)- “… tuồng lếu láo”, hay “phường” (số đông)- “… phường lếu láo”.
Ở câu thơ thứ sáu có: “… chẳng khỏi” là không bao giờ khỏi; “… vết năm ba” là năm ba vết roi- “… chẳng khỏi vết năm ba” nghĩa là: liên tục bị mắc tội, liên tục bị đòn roi, không lúc nào là không có năm ba vết roi trên lưng.
Chữ “chẳng” ở đây không những không coi là: “… trùng lặp với chữ “chẳng” ở đầu câu 1…” như Chử Văn Long đã nêu, mà nó lại là cách chơi chữ rất tài tình, vì: cùng một chữ “chẳng” thế mà lại thể hiện hai ý nghĩa đối lập nhau; một cách ngầm so sánh làm nổi bật hai điều khác nhau đó: một là danh giá cao sang của giòng họ Lê, hai là sự chừng phạt tội lỗi “liên chi hồ điệp” một đứa con hư hỏng làm “bại hoại gia phong”.
(Thử ngẫm_ Dù rất cố chấp khi đánh giá thơ Kiều, đã nhiều chỗ ông phản cảm không phù hợp với mục đích rất sâu xa, chí lý về “tâm lý xã hội” của Nguyễn Du, như chữ “công” trong câu thơ:
“Ngẫm mình công ít tội nhiều”, hay
chữ: “vùi nông” trong câu thơ:
“Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”
vv và vv
song ở đoạn thơ có hai chữ “người”:
“Người mà đến thế thì thôi
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
thế mà thi sĩ tài hoa Tản Đà, đã phải khen:
“Mấy câu đây thật tài tình! Dùng hai chữ “người” mà trên nói được Đạm Tiên, dưới nói được ra Kim Trọng…”
(Theo tôi thì Nguyễn Du còn tài tình hơn cả Tản Đà nêu, đó là ông đã cho Thúy Kiều mượn Đạm Tiên, Kim Trọng để nói về nỗi lòng mình)
So sánh như thế để thấy chữ “chẳng” ở hai câu thơ thứ nhất và thứ sáu bài thơ đó hay biết chừng nào?
Lại nữa, nếu viết là: “… cam chịu” (“lằn lưng cam chịu…”) thì vừa gượng gạo lại vừa không đúng khẩu khí của người quân tử xưa…, như Lê Quý Đôn , bởi vì: người xưa coi “cam chịu ” chỉ dành riêng cho “đàn bà” (“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”_ thơ “Bánh trôi nước ” của Hồ Xuân Hương).
Và ở cuối câu này mà viết là: “… roi cha” là bị bố đánh, hay “… roi tra” là đánh để tra khảo, thì hóa ra nói “toạc móng heo” như thế, chữ nghĩa sẽ tầm thường, không xứng đáng với tài trí của một “thần đồng”, hoặc nữa viết là “… roi da” thì thời đó chưa có roi da, chỉ có “trượng” thôi! (Ngay đến sau này chưa kể đến nhà nho, mà bất kì ai cũng không “đánh con như quân thù”)_ nỡ dùng đến roi da. Nhất là các cụ nhà nho xưa dù quan niệm: “Già đòn non nhẽ, đánh khỏe phải kinh”, nhưng các cụ rất tinh vi, chỉ chọn duy nhất roi mây, cuộn tròn một đoạn dễ cầm tay và chủ yếu là treo: trên tường hoặc đung đưa ở cửa buồng, để dậm dọa con cháu. Roi mây đánh vào lưng, vào mông thì vết hằn nổi cộm, khổ nhất là khi trời nóng bức, mồ hôi ra, ngứa ngáy sờ tay vào gãi thấy rõ mồn một vệt to như con lươn (ngày xưa các cụ thường đe con cháu đại để:… Muốn ăn lươn đấy!) vừa đau, vừa xót_ nhớ đời. Hơn nữa roi mây rất mềm, không sợ gãy do nóng dận đánh quá tay_ Thâm nho mà lại!
Tôi phải kể lể tường tận “dài dòng văn tự” điều này ngoài mục đích minh chứng không phải là “roi da” ở cuối câu thơ đó, mà chính vì ngày nay trừ tôi ra không ai dùng roi mây nên không biết sự tình).
Ở câu thơ thứ bẩy Trần Nhuận Minh nêu là: “… sau khi bị cha đánh đòn… mà dám nói thẳng với bố rằng: “Từ nay CỤ TỔ CỦA BỐ xin siêng học ”” thì có nên xem xét lại không?_ vì đây là bài thơ: tổng luận tự bạch chứ không phải sự thể Lê Quý Đôn phản ứng ngay “… sau khi bị cha đánh đòn… ”.
Hơn nữa, nếu hiểu Trâu Lỗ ám chỉ Khổng tử và Mạnh tử, thì đã làm đứt đoạn của mạch bài thơ “toàn rắn”, mất hẳn sự tinh túy tuyệt vời của bài thơ này… và Trần Nhuận Minh còn cho rằng:
“Ấy là chưa nói tới việc tôi chưa bao giờ nghe nói có loài rắn tên là hổ trâu cả”_ thì hoàn toàn khác với thực tế.
Tôi xin khảng định một trăm phần trăm là có rắn hổ trâu vì tai nghe, mắt thấy, tay sờ, miệng ăn (rắn nặng 3.5kg).
Hổ trâu là loại rắn to hiền lành trong các loài rắn, có con nặng tới 6..,7 ký lô, nên nó mang tên đó (ngày nay các cầu thủ bóng đá to khỏe thường được kèm theo tên mình với tên “trâu”) _Tìm ở Google có cả các bài “… Kỹ thuật nuôi rắn hổ trâu”.
Người ta chỉ bắt được rắn hổ trâu ở ngay trong lỗ, chứ ít người gặp nó ở ngoài như các loại rắn khác, nên nhà bác học của chúng ta đã sâu sát với thiên nhiên một cách tinh tường ngay từ tuổi thơ ấu và đã gọi hổ trâu là trâu lỗ rất đúng thực tế. Chẳng trách, sau này người đời ca ngợi “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn”. Có lẽ:
Nhận là trâu lỗ Lê Quý Đôn tự biện minh cho mình rằng: dù là “thần đồng” đi nữa mà như rắn hổ trâu lúc nào cũng chỉ nằm trong lỗ thì vẫn cứ dại dột (thực tế lúc đó ông đang ở tuổi thơ ngây) không biết sáng tối, hay dở. Rắn hổ trâu phải ra khỏi lỗ mới thấy được ánh sáng huy hoàng của mặt trời, mới tinh khôn được; Lê Quý Đôn phải thức tỉnh, sáng suốt siêng năng học hành mới thành tài được, (“Từ nay… ”_ là thời điểm tuyên thệ của ông).
Một lần nữa xin hết sức lưu tâm rằng: Đây là bài thơ tự bạch tổng luận_ rất tài tình…, vì không chỉ có đầu óc tư duy xuất chúng: lựa chọn và xếp đặt để tất cả tám câu thơ đều có loài rắn cho phù hợp với ý tứ bài thơ, nhưng sự thú vị, chí lý, nghiêm túc lại là ám chỉ đúng tính cách, sự thể đương thời của tác giả với thân thế cao sang, và đặc biệt là sự cảm thông sâu sắc ở một đứa trẻ_ đến nỗi lòng xót xa, cay đắng của cha mẹ mình vì có đứa con “bất trị” đó, nhất là trong một gia đình giòng dõi khoa bảng, gia giáo, danh giá; đồng thời bộc lộ quyết sách tự cải, khí phách vươn lên từ một tâm hồn ngây thơ với ý chí, khẩu khí phi thường…
Khởi nguồn bài thơ từ câu chuyện, mà đại ý người xưa kể rằng:
Thuở nhỏ Lê Quý Đôn nổi tiếng là “thần đồng”, đọc đâu nhớ đấy, dù sách rất dầy, ông chỉ đọc qua một lần là “thuộc lòng như cháo”, gấp sách lại, nhớ từng chữ, từng dòng, từng trang như in; Nhưng ông lại rất ham chơi bời lêu lổng “túm năm, tụm ba” với bạn bè để nghịch ngợm; đã không chịu học hành, lại tinh nghịch, bướng bỉnh (người xưa gọi là: rắn đầu, rắn mặt, cứng cổ…). Khuyên bảo, roi vọt liên tục, hết cách vẫn không thay đổi, cha mẹ ông rất buồn phiền, đau lòng.
Một hôm bạn bố (tiến sĩ đồng khoa Vũ Công Trấn) đang chơi nhà mách tội thất lễ của Đôn, ông Thứ nạt nộ con định đánh, ông Trấn xin tha, nể lời bạn, ông Thứ bắt con ra tạ tội bạn mình, tạ ơn bác xin tha đánh.
Bằng nhan đề: “Rắn đầu biếng học”, nhà bác học tương lai đã ứng khẩu xuất thần ngay, ông đọc vanh vách một mạch bài thơ này, và từ đấy, ông đã giữ đúng lời hứa chuyên tâm học hành, rạng rỡ, vang danh Tổ Tông_ đó là ý nguyện lớn nhất của người xưa.
Như Trần Nhuận Minh nêu: “Đây là bài thơ từ lâu đã được truyền tụng trong dân gian, tương truyền là của Lê Quý Đôn, có trong “Giai thoại văn học Việt Nam”và nhiều sách khác. Nhưng trong tất cả các sách đã xuất bản gồm những trang viết chính thức của nhà bác học Lê Quý Đôn, đều không có bài này” và ông cho rằng: “… đây là bài thơ đời sau làm… ”_ theo tôi Ngài Bảng Đôn không ghi lại bài thơ này là điều dễ hiểu, bởi vì các quan lớn nho học xưa, khác với võ quan, là không bao giờ muốn nhắc đến cái gọi là “chuyện trẻ con”, “đồ trẻ con”, “trò trẻ con”, vv.
Nhất là thời thơ ấu khả ố; hoàn toàn trái ngược với ý nguyện cần nêu gương sáng của dân chúng trong dân gian.
Như vậy, với hoàn cảnh thực tế ra đời của bài thơ này và hơn nữa là thành quả hiển vinh của Bảng Đôn là minh chứng, rất khớp với mọi tình tiết và ý tứ bài thơ đó, mà ngay từ thời xa xưa ấy, chính Tổ Tiên, rồi đến ông cha chúng ta đã công nhận “Rắn đầu biếng học” là bài thơ của Lê Quý Đôn, thậm chí đến ngày nay, ngay trong sách giáo khoa cũng ghi rõ danh tính tác giả bài thơ này không ai khác, nó đã thành nếp sống hàng gần ba thế kỉ có ít đâu, nên cho dù có hay không có văn bản xác minh thì đó cũng hiển nhiên, mặc định rồi. Và nhất là đây lại là bài học rất đặc biệt, lớn nhất, vô song về ý thức “cải tà quy chính” vươn lên vượt bậc của trẻ thơ, một tấm gương kì vĩ đáng để muôn đời con cháu noi theo thì có cần thiết phải giả định về tác giả bài thơ này hay chăng?
Xin kính nhường quyền phán xét của bạn đọc!
Mỹ Tân Trung tuần 5-2013 Nguyễn Văn vị Nhiên Hương
DĐ: 098 6761 481
Suy ngẫm TRUYỆN KIỀU
Bài 15
Sự sâu xa, chí lý của Nguyễn Du với từ “vùi nông”
trong câu thơ Kiều:
“Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”
Nhân đọc “Tản Đà với công trình biên khảo Truyện Kiều VHNA” trên mạng*, có đoạn ông viết :“ Hai chữ “bụi hồng” đây chỉ là lời văn lịch sự nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là: “vùi nông” thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý”.
Với nhận xét đó của thi sĩ tài hoa Tản Đà, ta càng thấy: chữ và nghĩa của Nguyễn Du trong thơ Kiều thâm thúy biết chừng nào!
… Phải thừa nhận rằng Nguyễn Du rất hay sử dụng mỹ từ, nhất là “bụi hồng” nhưng ông dùng rất đúng lúc, đúng chỗ, đủ ý, hợp lẽ; còn ở câu thơ này thì không phải thế!-không phải như ý Tản Đà nêu.
Để hiểu hết lẽ: về chủ định của Nguyễn Du ở từ “vùi nông” trong câu thơ này, theo tôi nên xét về cả hai phương diện:
“tâm lý xã hội”, và:“hiện thực”-
-Về tâm lý xã hội: Mở đầu đoạn thơ đó Nguyễn Du viết rất ý tứ:
“Có người khách ở viễn phương
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi”
Như thế, đây là người khách “làng chơi” ở xa, chỉ nghe tiếng Đạm Tiên mà tìm đến chứ chưa hề quen biết, chưa có quan hệ gì với nàng, nên không thể coi kiểu “vung tay” ấy là “trung hậu” được.
Cũng vì từ xa đến, mà đã biết tiếng một người con gái lầu xanh đó rất tài sắc, cao giá, nên anh ta phải đem nhiều tiền – đã sẵn sàng bỏ ra:
“Sắm sanh nếp tử xe châu”
và với hoàn cảnh “đơn thương độc mã”, nơi đất khách quê người muốn tỏ ra là con người “ăn chơi hào sảng” – anh ta chỉ lấy tiền ra mà dẫy thì đương nhiên phải thuê mướn toàn bộ công việc mai táng cho Đạm Tiên; duy cái máu “tay chơi”, “anh hùng rơm” thì hắn chỉ mải mê:
“Khóc than khôn xiết sự tình”
chứ có để ý gì đến việc “đào sâu chôn chặt”, chẳng qua chỉ là luyến tiếc một giai nhân tuyệt đỉnh mà có lẽ hắn cho rằng: nếu ta đến sớm thì nàng sẽ không tới nông nỗi này – cũng có lẽ ẩn ý của “sự tình” trong câu thơ trên mà Nguyễn Du đã nêu là như thế đấy! Không những thế ông còn cẩn trọng từng chữ (có trước, có sau), nên đã “chua” thêm cái điều ai oán là:
“…mặc dầu cỏ hoa”
chứ sau này anh ta có trở lại thăm viếng mả Đạm Tiên nữa đâu!
Sử sự đó của “người khách viễn phương” đúng như cách nói của nhà nho xưa đại ý: cái anh chàng đi chơi gái, chứ Đạm Tiên có phải vợ hắn đâu mà gắn bó nghĩa tình – và dù không trực tiếp làm thì cũng phải nhắc nhở người thuê mướn không làm cho qua chuyện, do đó chẳng “vùi nông” là gì?
Xin mở ngoặc thêm rằng: không chỉ ở đây mà rất nhiều đoạn thơ khác trong Truyện Kiều (tôi sẽ trình bày lần lượt sau), Nguyễn Du đã tỏ rõ là bậc thầy về “tâm lý xã hội” rất sâu xa – ông chỉ cần dùng một “chữ” thôi đã thể hiện rất nhiều ý tứ, nhất là ở lĩnh vực này. Trong câu thơ đó ông không dùng chữ “chôn” – chôn nông, bởi như thế vẫn còn là tử tế mà ông đã dùng chữ “vùi” – vùi nông là vùi dập qua quýt, có lẽ ông muốn nêu nên ba điều:
Một là: tư cách hời hợt của anh chàng đi chơi gái,
Hai là: việc vùi lấp cẩu thả của người làm thuê,
Song đáng kể hơn cả là Điều thứ ba: ông đã nhân đạo cảnh báo về hậu họa tang thương cho những cô gái làm nghề “bán hoa” là ngay lúc sống thì làm “đồ chơi” cho mọi người:
“Sống làm vợ khắp người ta”
nhưng đau xót hơn cả là khi chết không những đã phải chịu cô đơn, cô quả (như lời người xưa nguyền rủa):
“Hại thay thác xuống làm ma không chồng”
thậm chí lại còn không được “mồ yên mả đẹp” như những người bình thường khác mà phải chịu:
“Sè sè nấm đất bên đường”
để mỗi buổi thanh minh người ta lại dẫm đạp lên đến nỗi:
“Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
-Về hiện thực: Lúc chị em Thúy Kiều đến mả Đạm Tiên thì đã:
“Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm”
Như thế, hàng năm vào dịp thanh minh đã không có người đắp điếm thêm, mà ngôi mộ lại nằm ở bên đường với thời gian đã quá dài, nắng mưa bào mòn đến nỗi chỉ còn:
“Sè sè nấm đất bên đường”
nhìn thấy hiện thực rõ mồn một như vậy thì chẳng là “vùi nông” hay sao?
Với hai phương diện nêu trên, theo tôi ở câu thơ này không có từ nào thay thế được từ “vùi nông” sâu xa, chí lý của Nguyễn Du.
Chẳng trách, Tự Đức là ông vua nổi tiếng hay chữ đã phải thán phục thốt lên đại ý: Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể sửa được dù chỉ là một chữ.
Càng nghe càng thấy rõ ràng,
Nguyễn Du hơn hẳn trong làng thơ văn
Hồng Phong, Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định.
Đầu tháng 7 năm 2013
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
DĐ: 0986761481.
TV: – * trang mạng: vonga1. wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/
– Tôi xin trình bày các bài viết sau tương tự như trên – từ nhận xét của Tản Đà ở các câu thơ thứ: 287, 288 – 317,318 – 774 .v.v. trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
TRUYỆN KIỀU – Suy ngẫm
Bài thứ 16
Có phải ý Nguyễn Du như nhận xét của Tản Đà
hay không? – trong câu thơ Kiều:
“Ngày xuân con én đưa thoi”
Ở trang mạng: http://vonga1.wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/ có bài viết đã nêu ý của thi sĩ Tản Đà nhận xét về câu thơ trên, xin trích nguyên văn như sau:
“Câu này muốn nói ngày xuân đi nhanh thấm thoắt mà nhân cảnh xuân có những con én bay đi bay lại, cho nên đặt như đây là lời văn tả cảnh. Có bản giảng vì cái thoi dệt cửi làm như hình con chim én, nghĩ đó thực sai”.
… Như bài số 1 – Suy ngẫm Truyện Kiều, tôi có viết đại ý là: đọc thơ Kiều nếu chỉ hiểu theo kiểu một với một là hai, thì chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”; vì hầu hết mỗi chữ, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đều có rất nhiều ý tứ kể cả về nội dung lẫn nghệ thuật; và các câu thơ gần, xa nhau thường có mối tương tác ý nghĩa cho nhau ( Tôi sẽ xin trình bày điều này lần lượt từ câu thơ đầu (c1), đến câu thơ cuối (c3254) trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ). Vì thế ở câu thơ này có lẽ nên hiểu ít nhất hai trường hợp khác nhau:
– Một là như nhận xét của Tản Đà bởi có chim én xuất hiện vào mùa xuân, chao đi chao lại rất nhanh mà Nguyễn Du ví ngày xuân trôi qua mau chóng như én bay…
– Song còn phải nghĩ đến hình tượng thứ hai như câu ca dao:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ ai đâu”
(Nguyễn Du thường mượn ý tục ngữ, ca dao đưa vào thơ Kiều)
Bởi trong thực tế thời xưa người ta đã khôn khéo làm chiếc thoi dệt vải nhọn cả hai đầu trông giông giống con chim én để dễ luồn giữa hai mặt vải trên khung dệt mà không bị vướng mắc, tên của nó được quen gọi là con thoi hay con én.
Khi dệt vải con thoi lao nhanh thoăn thoắt ở khung cửi, đây cũng là một ý nữa của Nguyễn Du nói lên sự trôi đi nhanh chóng của ngày xuân như con thoi vun vút ( câu thơ có: con én và đưa thoi )
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đấy mà không xét đến câu thơ tiếp sau thì vẫn là khiếm khuyết vì Nguyễn Du còn cụ thể hóa cái tốc độ nhanh chóng trôi qua của mùa xuân ở thời điểm đó là:
“Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
(ngày xuân đi nhanh quá, nhanh chóng đến nỗi cả mùa xuân có chín chục ngày thì đã qua hơn sáu mươi ngày rồi).
Tuy nhiên, điều này chỉ là hình tượng hiện thực của ngày xuân, mùa xuân trôi đi nhanh chóng còn tâm điểm chính mà Nguyễn Du muốn sắp xếp cái ý đồ tiếp theo là khung cảnh
“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
và với một sự kiện gặp gỡ thơ mộng của Kim Kiều cũng trôi qua nhanh chóng như ngày xuân ấy, nó lại là khởi nguồn cho kiếp trầm luân nhơ nhuốc của một thiếu nữ tài sắc, thảo hiền ở một gia đình nề nếp. Và dù rằng sau này Kiều Kim cũng có những giây phút mê say vui thú tâm tình vụng trộm, nhưng so với mười lăm năm chuân chiên của nàng thì quá ít, nó trôi qua quá nhanh chóng như mùa xuân tươi đẹp vậy.
Chỉ bằng một câu thơ thôi Nguyễn Du đã nêu bật cái chiết lý muôn thuở là niêm vui dù có muốn níu kéo vẫn trôi đi mau chóng quá ( còn nỗi buồn dù muốn xua tan cũng cứ kéo dài ). Mùa xuân tươi đẹp nhất trong năm thì vun vút trôi qua. ( chỉ có mùa đông giá lạnh là kéo dài lê thê )
Đặc tài quan sát, suy tư mọi sự để chọn chữ, đúc nghĩa rất chuẩn mực, đa dạng, thâm thúy của Nguyễn Du là thế đấy!
Như vậy:
Cả con chim én hiểu theo ý Tản Đà,
Cả cái thoi dệt cửi xưa hiểu theo câu ca dao đó,
Cả câu thơ tiếp sau,
Cả ngày hội thanh minh vui xuân ấy,
Và ngay cả ẩn ý nói lên tình xuân tươi đẹp phút chốc của Thúy Kiều …
Tất cả những điều đó đều trôi đi nhanh chóng quá cùng với mùa xuân, có lẽ đó mới đúng ý của Nguyễn Du nêu trong câu thơ:
“Ngày xuân con én đưa thoi”
…
Chỉ nêu ngày đầu tháng ba
Nguyễn Du dùng chữ văn hoa lạ thường.
Hồng Phong, Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định
Đầu tháng 8 – 2013 Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
Truyện Kiều- Suy ngẫm
Bài thứ17
Kim Trọng có phải là “bạn học thân” với Vương Quan
như ý của Tản Đà không?
Nhân đọc trên trang mạng: vonga1.wordpress.com/1012/03/24/tản-da-với-cong-tring-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/.
Ở hai câu thơ Kiều:
“ Nhận từ quán khách lâu la
Tuần trăng thấm thoát nay đà thân hai ”.
Có nêu nguyên văn Tản Đà nhận xét:
“ Nghĩa là gần hai tháng – Nhân câu này ngẫm ra mới thấy một tình sự đáng buồn cười. Kim Trọng với Vương Quan là chỗ bạn học thân mà Trọng đến trọ sau nhà Quan đã gần hai tháng, hai người không hề sang chơi nhau, mà Kim đã để ý ngấp nghé một sự khác. Chỗ đó nghĩ sao cho hợp tình?”.
Xin trình bày quan điểm riêng của mình để bạn đọc tham khảo thêm:
Qua xem nhiều quyển thơ Kiều và với suy xét tự thân, trước tiên chúng tôi thấy chữ “Nhẫn” hợp lẽ hơn chữ “Nhận”, nên là:
“Nhẫn từ quán khách lân la”
Còn nhận xét của Tản Đà về chữ và nghĩa ở hai câu thơ này thì liệu có sai lệch với ý chuẩn mực của Nguyễn Du chăng?
… Tôi không nghĩ rằng Tản Đà lại coi “đồng thân” là “bạn… thân” vì ai cũng hiểu “đồng thân” là cùng trang lứa, còn đồng môn mới là “bạn học”. Trong Truyện Kiều này không hề có câu thơ nào nói Vương Quan và Kim Trọng là “bạn học thân” cả mà chỉ chứng tỏ rằng:
“Với Vương Quan trước vốn là đồng thân”. (c154)
Hơn thế nữa, trước đó tám câu thơ Nguyễn Du đã nêu rất rõ ràng là Vương Quan chỉ “quen mặt” Kim Trọng chứ hoàn toàn không nói gì “là chỗ bạn học” kể cả thân, sơ:
“Chàng Vương quen mặt ra chào”. (c145)
Như thế, nếu chỉ riêng xét về văn từ thơ Kiều, thì liệu “tình sự đáng buồn cười” đó chúng ta nghĩ sao đây?-
Vì quả thật chữ nghĩa của Nguyễn Du rất “hợp tình” rồi…
Để suy hết lẽ: nếu cứ coi như ý Tản Đà rằng Kim Trọng và Vương Quan “là chỗ bạn học thân” đi nữa, thì thử hỏi những chàng trai thời đó có dám “tiết lộ” bóng dáng mình với em cô gái mà anh ta dụng tâm “tán tỉnh” không? – nhất là lại với em trai, cái cảnh ngộ đồng giới thì sẽ biết “thóp” mình ngay, rất khó sử. .
… Tuy đã khoảng hai tháng trời, dù đã ở “… chốn ấy chữ bài” (c281) mà chàng Kim vẫn đành “phục kích” chờ thời cơ, cứ “len lét như rắn mùng năm”, ngay cả cần theo dõi bóng dáng nàng Kiều cũng không dám mở toang cửa sổ, mà chỉ đành cam chiụ:
“Song hồ nửa khép cánh mây” (c283)
và lúc nào cũng chỉ ẩn nấp, dòm ngó vụng trộm, không để cho ai biết, cứ kiên nhẫn:
“Tường đông nghé mắt ngày ngày hằng trông”- (c284)
có thế thôi!- điều này chính Tản Đà cũng phải thừa nhận, nên vô tình tự phản bác mình: “… mà Kim đã để ý ngấp nghé một sự khác…” – chính cái: “… ngấp nghé một sự khác” đó!- là sự biểu lộ sâu sắc về tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
Như vậy, Nguyễn Du đã lột tả đúng tâm trạng của chàng trai Kim Trọng với những sử sự bí ẩn, ngay cả phải dấu mình không dám “tiết lộ” gặp Vương Quan; ông đã nêu bật tâm lý xã hội đương thời, điều dè dặt của người con trai ngày xưa trước ái tình.
Song, điều đặc biệt hơn cả là Nguyễn Du đã rất tài tình dùng câu chữ mà dù ai muốn hiểu cách này hay cách khác: văn lý, hoặc nghĩa lý, gì gì đi nữa…, thì câu thơ vẫn cứ đúng lý, hợp lẽ, thấu tình đạt ý… chứ không chỉ hào hoa, tình tứ thôi đâu.-Thế mới biết:
Thơ Kiều, không ngẫm kỹ càng,
“Buồn cười” “tình sự” rõ ràng là ta.
Trung tuần tháng 11/2013
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
TRUYỆN KIỀU: Suy ngẫm Nguồn NƯỚC ở đâu? –
Bài viết thứ 6 để thấy được ngấn vàng do ánh trăng chiếu xuống
trong câu thơ Kiều:
“Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
Thoạt đọc hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
ta cứ tưởng rằng đây đơn thuần chỉ là những câu thơ tả cảnh mĩ miều trong đêm trăng sáng như gương; Và chỉ cần hiểu như thế thôi cũng đã lý thú lắm rồi. Vậy mà, còn hơn cả sự hiểu đó rất nhiều nếu ngẫm nghĩ kỹ mới thấy ẩn trong nó còn có những điều ý nhị, hữu tình và kể cả trớ trêu.
… Bằng một chữ “dòm” nhân hóa mặt trăng, Nguyễn Du đã mách bảo:
Tâm lý của một cô gái khuê các thời xưa là: dù chẳng có lỗi lầm gì, duy chỉ “phải lòng mặt” một chàng trai, thế mà cũng e sợ, ngượng ngùng chột dạ không phải với người khác, mà ngay cả với hình tượng vô tri vô giác là “Gương nga”- vì nàng Kiều cứ nghĩ rằng: ánh trăng kia đã chủ ý ghé nghiêng chênh chếch dòm ngó soi mói qua song cửa sổ vào phòng mình đâu có phải là vô tình mà nó đã tường tận từ đáy lòng trắc ẩn, tương tư của nàng ngay sau buổi chiều gặp gỡ chàng Kim. Điều gọi là “có tật giật mình” kiểu ấy rất thông thường ở các cô gái thời xưa, thì ngày nay lại rất buồn cười, ngộ nghĩnh.
Không những thế, vẫn cùng một ánh trăng chiếu sáng như vậy, ở câu thơ liền sau đấy, Nguyễn Du lại lột tả sâu xa hơn: đó là nỗi lòng cô đơn, vô vọng của Thúy Kiều trước cảnh vật vắng vẻ trong đêm trăng, nhưng chúng đều có bầu bạn, một sự so sánh độc đáo giữa cảnh vật với con người, bởi vì:
Ánh trăng màu vàng chiếu xuống mặt nước phải chăng lúc đó có gió nhè nhẹ thổi làm gợn sóng, nên đã nhìn thấy ngấn nước màu vàng:
“Vàng gieo ngấn nước…”
như thế thì nước đã có bạn là gió và ánh trăng vàng.
Lại cũng ánh trăng ấy chiếu xuống cây, thì nàng Kiều đã nhìn thấy cây in hình trên mặt sân, mà Nguyễn Du đã hình tượng rất gọn ghẽ, tình tứ là:
“…cây lồng bóng sân”
và như thế thì sân cũng có bạn là cây.
Duy chỉ có một mình Thúy Kiều phải cô đơn trong đêm trăng sáng; dù rất hữu tình, nhưng khi: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
… Xin trở lại nhan đề đã nêu ở câu thơ trên:
“Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
thì nguồn nước này có từ đâu?- Sự thể xin trình bày:
Thời xưa, các quan văn triều đình là người học rộng, đạo sâu; hoặc nữa là những nhà nho mộng mơ, thâm thúy, nên các Ngài thường xây dựng khuôn viên ăn ở, thưởng ngoạn rất thơ mộng theo thuyết Phong Thủy phương Đông là phải có Hồ hoặc Ao nước ở khu vực trước nhà; có vườn cây ăn quả to, nhỏ bao bọc khuôn viên sâu rộng, tách bạch:
“Thâm nghiêm kín cổng cao tường”
Cảnh vật này ngày nay còn di tích ở một số Đền, Chùa…
Như vậy, nguồn nước thể hiện trong câu thơ trên là ở Hồ hoặc Ao trước cửa nhà Thúy Kiều.
Chúng tôi muốn nêu lên cảnh trí này * vì nếu chúng ta không biết đến nó thì sẽ rất thiệt thòi ở chỗ không cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa tả cảnh ngụ tình rất thâm thúy, sâu xa của Nguyễn Du, bởi khi đứng trước một không gian tĩnh mịch, cây cối, hoa cỏ um tùm sâu thẳm đó, con người rất nhỏ nhoi, hơn nữa trong đêm khuya thanh vắng, trăng trong; một thân một mình phận gái càng khiến nỗi lòng nàng Kiều thêm rạo rực, xao xuyến, đơn côi- Đó mới là dụng ý chính ở hai câu thơ này của Nguyễn Du.
Quả thật:
May thay đọc mấy câu Kiều,
Người xưa, cảnh cổ là điều mới hay…
Mỹ Tân. Mỹ Lộc. Nam Định
Cuối tháng 7- 2009
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
VT: 0968761481 Vina:01278935092
TÁI VIẾT:
-Bài viết chỉ mang tính chất nêu tiêu đề để cùng bàn luận. Kính mong chư quý vị chỉ giáo, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn rất nhiều…
-* cảnh trí này: thời xưa thì ai cũng lĩnh hộ được ý thơ của Nguyễn Du; nhưng ngày nay cảnh chí này ít có; với văn học cổ, nếu cứ máy móc dựa vào văn cảnh thì đâu thấy được ý nghĩa sâu xa của tác giả.
Suy ngẫm TRUYỆN KIỀU
Bài viết thứ 18 Có lúc nào đất cao, trời thấp không?
Có thắc mắc đại ý rằng:
Bao giờ Đất chẳng thấp Trời chẳng cao, thế mà ở câu thơ thứ 1817 trong Truyện Kiều, có lẽ Nguyễn Du viết chưa phải:
“Bây giờ đất thấp trời cao”
Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu đơn thuần với một ý về sự thấp, cao giữa Thúy Kiều với Thúc sinh ở thời điểm “bây giờ” đó, thì chắc nhiều người luận ra.
Vậy nên hiểu sao đây cho đầy đủ, đúng ý định của Nguyễn Du trong câu thơ này?
… Riêng xét về ngôn từ, nếu ở chúng ta sẽ than là:
Hỡi ôi! Đất thấp trời cao
thì có lẽ không ai thắc mắc, song như thế sẽ không phải là Nguyễn Du nữa rồi; vì ngoài mục đích nêu bật cả về nội dung lẫn nghệ thuật tu từ, ông còn thể hiện, nhưng rất kín đáo về một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều mà ít ai để tâm đến; xin bàn luận điều này ở phần sau; còn bây giờ hãy tìm hiểu cái ý nghĩa đơn thuần như đề cập ở trên đã:
Là con hầu gái, hiển nhiên Thúy Kiều so với Hoạn thư như: “đất thấp trời cao” – ý này không cần bàn đến.
Song, trong hoàn cảnh Thúc, Kiều được gặp nhau éo le, bất đắc dĩ ở Vô tích, do Hoạn thư sắp đặt, vào cái lúc “Bây giờ…” ấy, thì sự chênh lệch giữa cô hầu thấp hèn lè tè như dưới mặt đất, so với ông chủ cao vời vợi như trên trời; chứ không phải bằng vai phải lứa, nghĩa vợ tình chồng tâm đắc; mến đức, nể tài; tôn quí lẫn nhau như ở Lâm Truy thì hẳn là “đất thấp trời cao”.
Điều “bây giờ” này chúng ta cũng dễ hiểu được vì Nguyễn Du đã chỉ ra rằng:
“Rõ ràng thật lứa đôi ta
Làm cho con ở chúa nhà đôi nơi”
Sự cách biệt giữa con ở với chủ nhà thời xưa không chỉ thể hiện ở sự thấp cao tột cùng về danh giá, giữa đê hèn và cao quí; mà chủ nhà còn có quyền hành hạ con hầu đủ mọi cách, kể cả đánh đập đến chết cũng “vô tội vạ”.
Để lồng vào thơ mình giàu biểu cảm, thấm đậm lòng người, Nguyễn Du đã khéo léo dùng lời ca thán trong dân gian xưa, khi dân đen bị oan ức, đại ý là: Phen này đất thì thấp, trời thì cao, dẫu có kêu oan cũng không thấu đến ông trời ( cũng có ý nữa là so sánh giữa mình với “đối tác” )
Khéo là:
Mượn lời ca thán dân gian
Nguyễn Du bày tỏ nỗi oan Thúc, Kiều…
-Sao lại nói là “nỗi oan” được chứ, khi mà Thúc sinh đã dấu vợ cả để lấy vợ hai và Thúy Kiều biết Thúc sinh có vợ rồi mà vẫn chung sống?
-Đây là khởi nguồn cho cái ý nghĩa sâu xa hơn cả ở điều gọi là “Bây giờ…” đó, với một dụng ý bí ẩn của Nguyễn Du.
Nếu theo Luật Hôn nhân và gia đình ngày nay của chúng ta thì Thúc, Kiều đã phạm pháp; song ở thời phong kiến xưa thì hoàn toàn khác hẳn, vì : “làm trai năm thê bảy thiếp…”. Hơn nữa Thúc sinh và Thúy Kiều kết hôn là hoàn toàn hợp pháp, hợp tình, hợp lẽ, xin xét:
+Về pháp lý: thì đã được quan Phủ ở Lâm Truy công nhận là:
“Dâu con trong đạo gia đình” (c1463)
không những thế Hôn lễ còn được tạo dựng với nghi thức công ngay lập tức:
“Kíp truyền sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruổi sao
Bày hàng cổ súy xôn xao
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi”
+Về gia pháp: thì cha đẻ của Thúc sinh đã chấp nhận:
“Thương vì hạnh trọng vì tài (c1469)
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba”
Vì thế, đương nhiên Thúy Kiều chỉ kém Hoạn Thư có một bậc là làm vợ hai Thúc sinh; chứ không phải chênh lệch như trình bày ở phần trên.
Về phần mình, mặc dù đã lường trước được hậu họa và nỗi ưu sầu lúc chia ly, Thúy Kiều vẫn biết thân biết phận nên không chỉ giục giã Thúc sinh sớm về thăm vợ cả mà còn căn dặn hết lẽ, hết tình là cần thú thật chuyện lấy vợ hai với Hoạn thư:
“Xin chàng kíp liệu về nhà” (c1491), và:
“Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi (c1512)
Hơn điều dấu ngược dấu xuôi
Lại mang những việc tày trời đến sau
Thương nhau xin nhớ lời nhau”
Như thế Thúy Kiều đã không có lỗi, nhưng vì trước đó đã từng nếm đòn đau hà khắc của phận tôi đòi, nên “Bây giờ” nàng đành:
“Sợ uy dám chẳng nghe lời” (c1821)
mà còn cam chịu:
“Bắt khoan bắt nhặt đủ điều (1837)
Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay”
đến nỗi nàng sợ hãi bàng hoàng, hoảng loạn tâm trí “tán hoán tê mê”. Tai họa này phải chăng là do Thúc sinh đã quá ngờ nghệch, mà thời xưa gọi là “thấp mưu thua trí đàn bà”, đã không khôn khéo để làm được cái điều mà Hoạn thư cần trước đó, là:
“Ví bằng thú thật cùng ta
Có dong kẻ dưới mới là người trên
Dại chi chẳng giữ lấy nền
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình”
Trước sự hành hạ Kiều của Hoạn thư, chàng Thúc hèn nhát chỉ “câm như miệng hến”:
“Sợ quen dám hở ra lời” (c1827)
và nhu nhược đến đến nỗi: “phách lạc hồn siêu”, “như dại như ngây”, “nát ruột tan hồn”, “tan nát cõi lòng”, “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “càng cay đắng lòng”, “nát ruột như bào”.v.v..
Bằng những từ ngữ “chắp nhặt” trong dân gian, với hàng loạt điệp từ, cụm từ gợi mở hoặc cảm thán, với sáng tạo, sắp đặt trình tự chữ nghĩa xoáy vào, làm tăng dần cung bậc: không chỉ riêng nỗi thống khổ cả thể xác lẫn tâm trí của Thúy Kiều mà còn nêu bật cả sự đau đớn tâm can tột cùng của chàng Thúc đã lộ rõ ngay ở trạng thái tâm lý và dáng dấp, cùng đành cam chịu đòn ghen hiểm độc, quái ác của Hoạn tiểu thư, tới mức:
“Làm cho nhìn chẳng được nhau (c1549)
Làm cho đày đọa cơ cầu chẳng lên
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
“người thăm ván bán thuyền” còn ai khác Thúc sinh, và cùng với hai câu thơ được Nguyễn Du chỉ ra rất rõ ràng, nhưng lại dễ làm nhiều người nhầm tưởng là ám chỉ vào Thúy Kiều, đó là:
“Bây giờ một vực một trời
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi”
vào cái lúc “Bây giờ” này, “một vực” đó chính là hoàn cảnh, sự thể của chàng Thúc, còn “một trời” hẳn là vị thế của tiểu thư họ Hoạn.
Như vậy, không chỉ Thúy Kiều so với Thúc sinh và Hoạn thư là “đất thấp trời cao”, mà ngay cả Thúc sinh so với Hoạn thư cũng tệ hại hơn vì còn như “một vực” với “một trời”, (cả hai đều “há miệng mắc quai” – “Ăn làm sao nói làm sao bây giờ”, và không kêu được tới trời).
Đó mới là ý nghĩa chính, ý nghĩa sâu xa ở Đại thi hào của chúng ta. Và muốn hiểu được điều này của từ “Bây giờ” ấy, thì không thể chỉ đơn thuần xét riêng câu chữ đó, mà cần nghiền ngẫm với một văn phong cực kỳ độc đáo có một không hai của ông là bằng cách đọc ngược trở lại những 344 câu, từ câu thứ 1463 đến 1470 mới thấy, biết: Hôn nhân của Thúc, Kiều ở thời phong kiến xưa là chính đáng mà vẫn bị cường quyền đàn áp; đọc ngược lại 326 câu thơ, từ câu thứ 1491 đến 1523 để thấy được tâm tư, nguyện vọng đúng đắn của Thúy Kiều; đọc ngược lại 268 câu thơ, từ câu thứ 1549 đến 1552 mới thấy rõ âm mưu thâm độc, nham hiểm của người đàn bà thuộc giai cấp thống trị, cường hào, ác bá thời xưa; và còn phải soi xét trước sau 96 câu thơ từ câu thứ 1804 đến 1897 mới thấy rõ hơn nữa tính cách rất đặc trưng của từng nhân vật: Hoạn thư, Thúc sinh, Thúy Kiều – đáng chê, trách; khen ngợi; căm hờn hay thương xót.
Sự cẩn trọng “rào trước đón sau”, “nâng lên đặt xuống”, sáng tạo, xây dựng sắp xếp tình tiết, sử dụng chữ nghĩa chí lý, lôgic , không chỉ ở đây mà còn nhiều chỗ trong Truyện Kiều rất bí ẩn, độc đáo, tài tình; không chỉ riêng chúng ta mà ngay cả các văn nhân, trí sĩ, học giả uyên bác xưa nay cũng mỗi người hiểu một lẽ gây tranh cãi hàng thế kỷ vẫn chưa ngã ngũ; ngay cả thi sĩ tài hoa Tản Đà cũng không tránh khỏi những suy xét nên chăng chưa thỏa đáng như ở những câu thơ thứ 8; 39; 78; 288; 317; 457, 458; 773, 774; 2215, 2216; 2259… (Chúng tôi đã và sẽ chứng minh sự tài tình, chí lý của Nguyễn Du như ở các bài viết thứ 13, 15 ,16, 17).
Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới là thế đấy:
Thơ thì quả thật tuyệt vời,
Bố cục, tình tiết – đất trời đảo điên.
Chữ nghĩa: gấm vốc – như tiên,
Lúc ẩn, lúc hiện, bút nghiên nào bằng…
Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định.
Đầu tháng 1 – 2014
Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
DĐ: 0986761481
Vì vừa mới từ Lam Kiều đến Lôi Châu vẫn còn “lạ nước lạ cái”, Mã giám sinh đã đồng ý mua Thúy Kiều với giá 400 lạng vàng do hắn tự so sánh với các “món hàng” khác là quá rẻ rồi.
Nhưng nào hắn đã trả tiền ngay đâu mà mới chỉ đưa mảnh giấy viết làm tin:
“Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi” (câu 650)
Trong thời gian làm thủ tục vu quy thì lúc này họ Mã đã quen biết rồi nên lần mò, hỏi dò thấy rằng chỉ cần 300 lạng vàng là chuộc được Vương ông, vì thế hắn chỉ trả có vậy mà thôi.
Lại nữa, “cái uẩn ảo” mà Nguyễn Du muốn nêu bật lên về phẩm giá “người ba đấng, của ba loài”, là:
-Bản chất của con buôn loại Mã giám sinh thì gian giảo, sảo trá, sợ hớ, lật lọng, bắt bí, vô nhân đạo kể cả với hoàn cảnh người bị hoạn nạn, miễn sao hắn được nhiều lãi. Còn:
-Bản chất gia đình nhà nho Vương ông là “trọng nghĩa khinh tài”, dù trong chốc lát mất đi hàng trăm lạng vàng vẫn cam chịu, miễn sao cứu được người thân…
Và nữa- Ở câu thơ thứ 586:
“Này ai đan dập giật giàm bỗng dưng”
Thì “cái tinh vi” là Nguyễn Du đã tìm hiểu biết : dân chài đã dùng cái bẫy cá đặt sát đáy sông cho thóc thối, cá vào ăn bị sập; và cái giàm là đòn ống lùa cá tôm vào dậm để bắt.
Về“cái uẩn ảo”- ông đã chỉ ra rằng: bọn quan lại đã bẫy và lùa dân lành vào tội vạ để tống tiền.
Kính thưa các quí vị… (7Kết luận:khảng định ý nghĩa ĐTTT)
Còn rất nhiều, rất nhiều “cái tinh vi uẩn ảo” trong Đoạn trường tân thanh mà chúng tôi chỉ mới viết được hơn 20 bài; Song hiện nay nỗi băn khoăn nhất lại là:
…Đã 90 năm qua, điều xót xa, rớm máu con tim, dãi bày thống thiết đến tức thở, đứt hơi của một danh nhân cứu tinh trong tứ trụ tri thức Việt Nam thế kỉ thứ 20 học giả cao thâm Phạm tiên sinh đã nêu nên giá trị cao quí độc nhất vô nhị ở nước ta của Đoạn trường tân thanh, vẫn còn vang vọng:
“ Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển nếu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì, văn chương mình chỉ độc có một quyển vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư, Phúc âm của cả một dân tộc ví lại khuyết nốt thì dân tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! Mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ; sửng sốt, rụng rời tưởng như hòn ngọc ở trên tay buông rơi xuống đất tan tành vậy” . Vì như thế :
… Chúng tôi xin mạo muội kính cẩn thưa rằng: cũng như nhiều người đã nêu, cho tới nay và chưa biết đến bao giờ, đất nước ta mới có được một tác phẩm vĩ đại để đời, soi sáng như thế trong thiên hạ; vì vậy, nếu chúng ta không tỉnh ngộ trước lời cảnh báo bất hủ, như những hồi chuông vang dội rung lên thôi thúc của tiền nhân với sự bức xúc, với lời lẽ khúc triết, day dứt đó; nếu nhà nước và nhân dân không cùng làm, đoàn kết lại, khi ngày nay trình độ dân trí đã cao vượt bậc, không gìn giữ phát huy giá trị cao quí của áng văn chương trác tuyệt vô giá, có một không hai ấy của dân tộc ta, thì liệu có tội với tiền nhân và con cháu muôn đời chăng?
Hội Kiều học Việt Nam với đúng vai trò cao cả, là ngọn cờ tiên phong, là lương tâm và danh dự, là bó đuốc soi đường cho chúng ta “chung lưng đấu cật” không chỉ vì Đoạn trường tân thanh tuyệt đỉnh và Nguyễn Du vĩ đại…,mà còn vì sự phát triển, tiến bộ của nền văn học, văn hóa nước nhà lâu dài…
Phải chăng: -Muốn giữ gìn phát huy cao độ sự trong sáng của tiếng Việt, thì:
-Cần khai thác, vận dụng triệt để chữ nghĩa tinh túy:“cái hay”,“cái đẹp” của Đoạn trường tân thanh… góp phần.
Thay cho lời kết, để khẳng định những điều mà học giả Phạm Quỳnh nêu cách đây đã gần một thế kỉ, tưởng như lộng ngôn, cực đoan, nhưng qua thời gian quá dài kiểm nghiệm, thì đó lại là sự tiên đoán về một chân lý vĩnh hằng, là:
Ngày nay, không những Đoạn trường tân thanh còn, mà lại còn vang lừng danh tiếng không chỉ trong nước mà ngay cả trên văn đàn thế giới;
(Không chỉ Đoạn trường tân thanh còn, tiếng ta còn, mà các loại hình văn hóa, văn nghệ khác như: Ca trù, Dân ca Quan họ, Hát xoan, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hội gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội còn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới).
…Tuy đại diện giai cấp phong kiến chỉ biết giá trị cao quý,vĩnh hằng của Đoạn Trường Tân Thanh mà suy luận về sự trường tồn của đất nước ta, chứ không làm được cách mạng giải phóng dân tộc trước vô vàn khó khăn rất nan giải mà họ bất khả kháng, duy chỉ có Bác Hồ kính yêu và Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua bao thác ghềnh, chống thù trong giặc ngoài đi đến thắng lợi vĩ đại hoàn toàn là- độc lập, thống nhất đất nước, nên: Ngày nay, nước ta không những còn, mà còn nêu cao ngọn cờ cách mạng giải phóng dân tộc vẻ vang khắp năm châu bốn biển, có uy tín lớn lao trên trường quốc tế, được bè bạn khắp nơi quí trọng. Vì vậy:
Chúng tôi xin phép được gói gọn điều bất hủ của học giả Phạm Quỳnh đã ca ngợi thiên tài Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh như sau:
Một nước không thể không có quốc hoa
Truyện Kiều là quốc hoa của ta.
Một nước không thể không có quốc túy
Truyện Kiều là quốc túy của ta.
Một nước không thể không có quốc hồn
Truyện Kiều là quốc hồn của ta.
Truyện Kiều còn tiếng ta còn
Tiếng ta còn nước ta còn.
Phải chăng đó là hiện thực hôm nay và chân lý muôn đời.
Dàn khoan HD 981 của Trung Quốc ở Hoàng Sa nước ta, hay bất kỳ trò trống gì gì đi nữa, cũng chỉ là nhất thời mà thôi.
Kính thưa hương hồn cụ Nguyễn Tiên Điền:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Phải chăng, mới chỉ 195 năm, sau ngày cụ vĩnh biệt “cõi người ta”, nơi suối vàng cụ không phải chờ đợi quá lâu đến hơn 300 năm, mà hôm nay đây, hậu sinh chúng con không những hiểu rõ nội dung và nghệ thuật tuyệt đỉnh cụ đã ban tặng, mà điều rất đáng kể, có lẽ đúng tâm tư của cụ là đã thấm nhuần những “cái hay”, “cái đẹp”, “cái tinh vi uẩn ảo” thần kì của cụ viết lên trong Đoạn trường tân thanh… chúng con khóc thương cụ rất nhiều, rất nhiều- hơn cả khi cụ đã thương khóc nàng Tiểu Thanh; chúng con không chỉ khóc thương một thiên tài làm rạng danh tổ quốc trên văn đàn thế giới mà còn thương khóc vì sung sướng quá khi hiểu được cái “chân lý nghệ thuật” cao thâm của cụ.
Đúng như ước muốn của cụ lúc sinh thời và còn sớm hơn rất nhiều (hàng hơn một thế kỉ), hôm nay chúng con xin kính cẩn thắp nén hương thơm tưởng nhớ, tưởng niệm một thiên tài có một không hai vì nền văn học, văn hóa nước nhà, với một niềm tự hào,vinh quang cùng nhân loại.
Chúng con xin kính cẩn cúi lậy trước vong linh cụ nhân ngày giỗ cụ thứ 195 rằng:
Một trăm chín nhăm năm qua,
Thế gian nay đã khóc òa nhớ thương…
Tố Như, ôi!- với “Đoạn trường…”
Để người muôn thuở vấn vương nàng Kiều!…
Xin kính mời các quý vị đứng dạy dành một phút tưởng niệm trước bài vị cụ Thanh Hiên vĩ đại!
Phút mặc niệm bắt đầu…
Xin kính mời các quí vị an tọa.
Một lần nữa chúng tôi xin kính chúc các quý vị cùng quý quyến An khang, Thịnh vượng, được mọi sự may mắn, tốt đẹp nhất…Và chúng tôi xin thành tâm nguyện là tín đồ ngoan đạo của đạo: Đoạn trường tân thanh-Nguyễn Du.
Xin trân trân trọng cảm ơn!…
Nguyễn Trần Văn vị Nhiên Hương. DĐ: 0986. 731. 481.
kính thong báo địa chỉ mới trang vô Ngã: http://www.vonga1153.wordpress.com