Tản Đà với công trình biên khảo Truyện Kiều – VHNA

24 Th3

Nguyễn Khắc Xương

Sau khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời mà nguyên tác có tên là Đoạn trường tân thanh, đã có nhiều người khảo cứu biên soạn Kiều, từ đó mà có nhiều tập truyện Kiều với những tên gọi khác nhau, vấn đề ở đây là văn bản truyện Kiều để có thể đi tới một văn bản Kiều chính xác, gần hoặc đúng với nguyên tắc hơn cả.

Các bản Kiều đã in ấn có thể chia thanh hai loại là bản Nôm và bản chữ Quốc ngữ, trong các bản Nôm còn chia thành bản Kinh và bản Phường còn các bản chữ Quốc Ngữ có thể chia làm các bản trước Cách mạng 1945 và các bản sau Cách mạng.

Bản Nôm thuộc lớp đầu là Kim Vân Kiều tân truyện của Phạm Quý Thích cùng thời với Nguyễn Du in khắc vào năm 1830 nhưng đã thất lạc. Sau còn nhiều bản Kiều Nôm khác như Thanh tâm tài tử 1830 (có Tổng thuyết của vua Minh Mệnh), Đoạn trường tân thanh 1871 (có bài Tổng từ vua Tự Đức), bản này sau được gọi là bản Kinh gốc. Các nhà sách ở Hà Nội như Liễu Văn Đường, Quan Văn Đường, Phúc Văn Đường v.v… đều có in ấn những bản Kiều Nôm trong đó đáng chú ý có bản Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu (soạn theo bản Kinh), Quan Văn Đường in ấn (1902 – Thành Thái), bản Kim Vân kiều tân tập cũng Quan Văn Đường in (1906 – Thành Thái).

Bản Kiều Quốc ngữ đầu tiên có lẽ là bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký (1875), Nguyễn Văn Vĩnh biên soạn Kiều năm 1912, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim có Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long thư quán Hà Nội xuất bản (1927). Nói chung đã có tới trên 40 văn bản Truyện Kiều được phát hiện trong đó có nhiều học giả soạn Kiều bằng chữ Quốc ngữ như Bùi Khánh Diễn, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Kim Chỉ, Nguyễn Can Mộng, Hồ Đắc Hàm, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim v.v… (trước Cách mạng).

Về văn bản học, các nhà biên khảo đều mong khôi phục lại diện mạo chân thực của tác phẩm, các phần hiệu đính và khảo dị chính là nhằm mục đích đó. Đó là phương pháp so sánh để phân biệt đúng sai nhằm tìm ra chân lý, đặt ra trước bạn đọc một bản Kiều mà nhà biên khảo cho là sát hợp với nguyên tác hơn cả.

Trong số các nhà khảo cứu biên soạn Kiều có Tản Đà nhà Nho và nhà thơ. Vào cuối đời, Tản Đà đã biên khảo một quyển Kiều góp thêm một bản văn Kiều vào danh mục các công trình biên khảo Kiều soạn bằng chữ Quốc ngữ.

Quyển Vương Thúy Kiều của Tản Đà nguyên là một di cảo, sau khi nhà thơ qua đời, gia đình tìm thấy bản thảo trong một chiếc bồ, mới đưa cho ông Vũ Đình Long, chủ nhân Nhà xuất bản Tân Dân trong một buổi ông tới thăm gia đình. Bản thảo này mất hẳn trang cuối, còn lại đều được đầy đủ gồm có lời tựa, phần “Nguyễn Du tiên sinh tiểu truyện” và “Mấy lời nói về thể lệ trong quyển” rồi đến phần soạn Kiều đề là Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, nhà xuất bản Tân Dân in và phát hành vào năm 1941, tới 1952 Nhà xuất bản Hương Sơn đã in lại.

Cũng như các bản Kiều khác, bản Kiều của Tản Đà cũng có hiệu đính, có chú giải, nhưng phần đặc sắc của bản Kiều Tản Đà chính là ở các lời bình văn, bình luận về văn chương, về từ ngữ, giúp người đọc thưởng thức sâu hơn về tác phẩm, nhận thức thâm thúy về giá trị văn học của Truyện Kiều – Nguyễn Du.

Với câu “Phong tình có lục còn truyền sử xanh”, Tản Đà viết: “Phong tình có lục nghĩa là có cái bản truyện phong tình, chữ (Bản Triều Nguyễn Thạch Giang (1973) viết là cổ, bản Bùi Khánh Diễn (1851- 1912) cũng chép là cổ).

Về câu “Ngày xuân con én đưa thoi”, Tản Đà chú: “Câu này muốn nói ngày xuân đi nhanh thấm thoắt mà nhân cảnh xuân có những con én bay đi bay lại, cho nên đặt như đây là lời văn tả cảnh. Có bản giảng vì cái thoi dệt cửi làm như hình con chim én, nghĩa đó thực sai”.

Như vậy cau “phong tình có lục” là hiệu đính văn bản còn câu “Ngày xuân con én” là đính chính chú giải của một số nhà biên khảo khác.

Có chỗ chú giải mà là hiệu đính, hiệu đính mà cũng bàn tới văn lý như câu:

Sắm sanh nếp tử xe châu
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Câu này là ở đoạn có “người khách viễn phương” tìm đến với Đạm Tiên thì nàng đã mất rồi. Khách “Khóc than khôn xiết sự tình” rồi đắp mộ cho Đạm Tiên. Tản Đà viết ở chú: “Hai chữ “bụi hồng” đây chỉ là lời văn lịch sự nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là “vùi nông” thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý”.
Đọc Kiều mà nhận thức câu, chữ như thế thật là sâu kỹ. Quả là khách đã “khóc than khôn xiết”, đắp mộ cho Đạm Tiên hẳn là phải có tâm hồn đồng điệu của nòi tình, làm sao lại có thể là “vùi nông” cho được.
Về câu:
Cửa sài vừa ngỏ then hoa
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang.
Các bản Nôm cũng như Quốc ngữ đều chép “cửa sài” và chú “sài là sài môn, xếp củi làm cửa”. Tản Đà sửa là: “Cửa ngoài…” và chú: “Cửa ngoài tức là cửa ngăn. Chữ này có nhiều bản in là cửa sài là lầm. Vì cửa sài là bởi chữ “sài môn” là cái cửa làm bằng củi hay nhánh tre, là cửa ngõ của những nhà nghèo hay những người cao đạo ẩn dật chớ không phải là cái thái độ(1) của nhà Ngô Việt thương gia”.
Về câu: “Đêm thâu khắc lậu canh tàn”, Tản Đà chú: “Câu này chữ vợi các bản đều để chữ lậu là lầm, mà chữ thâu thì có nhiều bản đề là thu. Song cứ theo văn thế và tôi có được nghe thì chữ thâu, chữ vợi, chữ tàn, ba chữ cùng nghĩa mà có hơi khác, nghĩa là đêm càng thâu, ngày càng vợi, canh càng tàn. Câu đây và câu sau (Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương) thực là hai câu tả tình cảnh rất hay cho nên cần phải biện bạch. Một chữ trút ở câu dưới nghe cũng khác thường, đủ thấy chỗ dụng công của tác giả”.
Như vậy, Tản Đà vừa đính chính từ, vừa hiệu đính câu, mà cũng làm công việc bình văn luôn trong đó.
Các bản Kiều thường là chỉ làm công việc chú giải và hiệu đính mà không có bình luận văn chương nhưng ở bản Kiều Tản Đà phần bình văn lại là phần quan trọng với những nhận xét tinh tế, có những phát hiện độc đáo. Một điểm đặc sắc trong các lời bình văn Kiều của Tản Đà là có lời khen cũng có chê, không chỉ tán tụng một chiều, mà đi vào phân tích câu và từ để có những nhận xét xác đáng. Tản Đà cho biết: “Phàm các việc giảng giải trong bản đây cốt để tỏ cái hay khéo trong văn chương cho được rõ chỗ tinh thần của tác giả, mà nếu có những chỗ đáng hồ nghi về văn lý cũng xin chỉ rõ những chỗ hồ nghi ấy mong để độc giả cùng nhận coi”.
Với lời Kiều sau khi thăm mộ Đạm Tiên:
Người mà đến thế thời thôi
Đời Phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tản Đà khen: “Mấy câu đây thật tài tình! Dùng hai chữ “người” mà trên nói được ra Đạm Tiên, dưới nói được ra Kim Trọng, sự linh động ở hai chữ khiến(2) là chữ “mà” và chữ “đâu”.
Về câu:
Vắng nhà được buổi hôm nay
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
Tản Đà tán thưởng: Hai chữ “lòng” trong câu đây rất có màu nhiệm. Nguyên trên kia lời Kim Trọng: “Trách lòng hờ hững với lòng”, cũng hai chữ “lòng” nói buông không mà một chữ trên nói Kiều, chữ dưới thời nói vào mình. Cho nên trong câu đây hai chữ, chữ trên nói vào mình mà chữ dưới nói chàng Kim, thực là giọng tri âm với nhau lắm”.
Câu:
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Tản Đà nhận xét: “Chữ đây thật mới mà nghĩ ra không thể có đặt chữ gì hơn. Tác giả thật cũng đã tốn công” – “chữ đứa cũng mới, đi theo với chữ gã, thật hay”.
Với câu “Mày ai trăng mới in ngần”, các bản Kiều có bản chép “Mày ải” như bản Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Vĩnh, cũng có bản chép “Mày xanh” như bản Bùi Kỷ. Tản Đà chép là “Mày ai” và chú: “chữ ai” trong câu đây là nói về Kiều, trông thấy trăng đầu tháng in cái vệt cong mà tưởng như lông mày của ai vậy.
Theo Nguyễn Văn Hoàn cho biết: “Trong báo Khuyến học số 4 (15-10-1935), Tản Đà giảng nghĩa câu thơ trên như sau: “Chữ ai trong câu đây là chỉ vào Kiều. Thúc Sinh trông thấy “trăng mới in ngần” mà nghĩ như cái lông mày của ai. Tứ văn giống như trong Trường hận ca, Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quý Phi có câu: “Phù dung như điện, liễu như mi”. Tiến lên một bước nữa, Tản Đà chê bản Kiều của Bùi Kỷ chép “Mày xanh” là vô vị”(3).
Không rõ cụ Nguyễn Du viết “Mày ai” hay “Mày xanh” nhưng xét về mặt văn tự, “Mày ai” rõ ràng hơn “Mày xanh” vì “Mày xanh” chỉ tả được cái hình dạng, còn “Mày ai” mới tả được tâm trạng của Thúc Sinh nhớ Kiều và cũng gợi lên hình bóng một con người.
Đoạn tả cảnh Giác Duyên dựng lều bên sông Tiền Đường để đợi đón Thúy Kiều theo lời thần mộng có câu:
Đánh tranh lợp mái thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Tản Đà khen câu tám: “Câu này lời văn rất đẹp”.
Đoạn Kiều giãi bày tâm sự với Thúy Vân, kể từ câu:
Rằng lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong…
Cho tới câu:
Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tất cả là 19 câu lục bát, Tản Đà nhận xét: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly mà như thế mới hết tình sự”.
Trong đoạn Thúy Kiều dựa thế Từ Hải báo ân báo oán có câu nói về Kiều đón mụ quản gia nhà Hoạn Thư và sư Giác Duyên lên ngồi cạnh:
Dắt tay mở mặt cho nhìn
Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
Tản Đà có một câu nhận xét bất ngờ mà thú vị: “Xem hai chữ “mở mặt” trong câu đây, có lẽ sự ăn mặc của Kiều trong lúc ấy có chàng mạng che ở trước mặt chăng?”.
Có lẽ chưa có ai biên khảo và đọc Kiều lại chú ý chi tiết đến tỉ mỉ như vậy.
Tản Đà có những nhận xét đột ngột rất thú vị như với câu:
Lạy thôi nàng lại chưa tường
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
Tản Đà viết: “Hai chữ “nghĩa chàng” ngẫm rất buồn cười. Câu này, tác giả cũng vì cô Kiều được thế mà làm nũng”
Ý kiến Tản Đà và khái niệm “nghĩa chàng” ở đây có phần khó hiểu, tại sao lại “rất buồn cười” và “làm nũng”?
Trong những nhận xét về văn Kiều, Tản Đà không chỉ ca ngợi tán tụng như số đông người viết về văn chương truyện Kiều, không chỉ dành cho tác giả những dấu son khuyên đỏ thắm mà còn đặt ra những dấu hỏi, chỉ ra những chỗ theo Tản Đà là yếu kém, là chưa hợp lý. Quả là Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có những tình tiết bất hợp lý, người đọc cũng như nhà biên khảo cứ xuôi theo mạch chuyện, dòng văn mà không để ý, nhưng Tản Đà đã thấy và chỉ ra được. Chẳng hạn đoạn Kim Trọng thuê nhà trọ ở giáp với nhà Thúy Kiều, Trọng lại là bạn của Vương Quan, ợ trọ đã được hai tháng:
Nhận từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Tản Đà nhận xét: “Nghĩa là gần hai tháng – Nhân câu này ngẫm ra thấy có một tình sự đáng buồn cười. Kim Trọng với Vương Quan là chỗ bạn học thân, mà Trọng đến trọ sau nhà Quan đã gầnhai tháng, hai người không hề sang chơi nhau, mà Kim để ý ngấp nghé một sự khác. Chỗ đó nghĩ sao cho hợp tình?”.
Quả “chỗ đó” cũng đáng cho chúng ta đặt một dấu hỏi.
Cũng một chỗ đáng hồ nghi khác, đoạn Kim Trọng tặng Kiều vài vật làm kỷ niệm:
Vội về thêm lấy của nhà
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Tản Đà đặt một dấu hỏi: “Câu này nghĩ đáng hồ nghi, vì lẽ Kim Trọng trong chỗ du học làm gì có “xuyến vàng” đem theo? Mà cũng không phải là cái vật của học trò con trai thường có”.
Đọc Kiều đến như thế, rõ ràng có một sự nghiền ngẫm sâu vào tinh thần nghiêm túc cao.
Tản Đà chê câu “Chày sương chưa nện cầu Lam” theo điển tích Bùi Hàng – Vân Anh bên Trung Quốc: “Cứ điển tích của câu này như thế mà đây đại ý chỉ là nói chưa thực lấy nhau. Vậy thời sáu chữ đây văn quá cầu kỳ mà một chữ “nện” nghe thấy rất nặng nề, những chỗ như đó tưởng người xem truyện cũng nên xét”.
Trong đoạn tả Từ Hải chia tay Thúy Kiều có câu:
Trông vời trời bể mênh mông
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Tản Đà có ý kiến: “Trong câu này hai chữ “thẳng giong” ngẫm ra chưa được tinh tế, vì ở dưới còn có lời Kiều muốn theo. Nếu quả thật Từ đã “lên đường thẳng giong” thời nàng còn nói sao được nữa. Cho nên như chữ đó có thể gọi là vội lời”.
Trong các câu mà Tản Đà Phê, có một câu với một từ đã khiến Tản Đà chê trách nặng nề, đó là câu: “Xét mình công ít tội nhiều”, lời Kiều nói về Hồ Tôn Hiến trong tiệc hạ công (mừng công) của họ Hồ. Tản Đà phê: “Chữ “công” trong câu này nghe không được yên nghĩa; vì sự giết Từ Hải; tự Kiều không nên nói là công”.
Ở một số Đông Pháp thời báo (Diệp Văn Kỳ – Sài Gòn), Tản Đà viết: “Như quyển truyện Kiều của ông Nguyễn Du, sự hay không còn phải nói nữa, song đến như câu: “Nghĩ mình công ít tội nhiều”, một chữ “công” đó thật quá dốt! Là sao? Như Từ Hải mà chết là do nghe lời Thúy Kiều khuyên, như Thúy Kiều mà khuyên chỉ là do cái bụng đàn bà nông nổi. Nay đặt như câu đó thời ra Kiều lập chí lấy sự giết Từ Hải làm công, thời Thúy Kiều không còn chút giá trị. Thúy Kiều đã không có giá trị thời như quyển truyện Kiều đó còn hay với ai mà cảm khái với ai! (ĐPTB số 638-1927).
Từ xưa tới nay, không một nhà bình luận văn học, biên khảo Truyện Kiều nào đã hạ bút “phê” Kiều, chỉ ra những chỗ “yếu kém” hoặc chưa đạt trong tác phẩm của Tiên Điền. Người đọc chỉ được thấy những lời ca tụng, tán dương cái hay cái đẹp cái tài tình ở Kiều. Duy chỉ có một Tản Đà đọc Kiều, biên khảo Kiều dám làm cái việc chưa ai dám làm ấy. Những ý kiến của Tản Đà đã giúp cho người đọc có một nhận thức sâu sắc nhiều mặt về Kiều chống lại sự sùng bái ca ngợi một chiều làm hẹp đi tầm nhận thức và tư tưởng khi tiếp cận Kiều.
Tản Đà “phê” Kiều như ở đoạn chê chữ “công” trong câu: “Xét mình công ít tội nhiều”, lời Kiều nói với Hồ Tôn Hiến như trích dẫn trên cũng là biểu hiện, minh chứng cho quan điểm của Tản Đà trong thưởng thức văn chương. Thực vậy, đây không chỉ là ý kiến của nhà thơ bất ngờ nảy sinh khi đọc Kiều mà thuộc về quan điểm có tính lý luận, bảo đảm tinh thần khách quan, khoa học và bảo đảm tự do tư tưởng trong thưởng thức văn học. Tản Đà viết về Người xem văn, nêu lên ý kiến: “…nên phải có một cái bụng thực công bằng, nghĩa là chỉ cứ luận ở văn mà không nên chú ý ở tên người tác giả; nếu một quyển sách, một bài văn mà tác giả là cụ thượng, ông nghè hoặc danh nhân danh sĩ thời sẵn lòng cho là hay. Cái tâm lý đó rất là nhu nhược mà tức là bị cái thế lực của người làm ăn áp đảo được mình. Đã như thế thời xem đến một bài văn, quyển sách của một người đơn thường có sẵn để một bụng coi thường. Vậy do cái bụng không công bằng ấy mà thành ra mình tự lầm, vì có nhiều khi cái danh với cái thực không đúng nhau mà thiên hạ kỳ văn thường ở những chỗ vô danh vậy”. (ĐPTB).
Đoạn bình và phê từ “công” trong truyện Kiều chính là một đoạn tiếp sau đoạn văn dẫn trên, Tản Đà “phê” Nguyễn Du cũng để minh chứng cho quan điểm về người xem Văn của mình, đến như cụ Nguyễn Du với tác phẩm Kiều mà còn có từ dùng chưa chính xác, còn chịu phê là “Thật quá dốt” khi dùng từ “công” huống chi là những tác giả, tác phẩm khác.
Quan điểm thưởng thức văn chương mà Tản Đà nêu lên là khoa học và đúng đắn, còn việc Tản Đà phê như vậy là đúng hay sai xin để các bạn đọc Kiều cho ý kiến.
Biên khảo Truyện Kiều, Tản Đà đã tỏ ra có tâm huyết với cổ văn, trân trọng với tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du, có như vậy mới dấn mình vào một công cuộc khảo cứu đòi hỏi nhiều tâm và lực về một tác phẩm văn học lớn. Tản Đà cũng cho thấy tất cả công phu, tinh thần nghiêm túc và sự tinh thế, nhạy cảm thẩm mĩ khi biên soạn Kiều, đặc biệt là với những câu xưa nay không ai có nhận xét gì. Tản Đà đã lật ra được những điều cần lưu ý. Tập Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện của Tản Đà là một đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn học truyền thống. Cũng qua Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện chúng ta hiểu Tản Đà hơn, thấy được ở Tản Đà một nhà Nho uyên bác và một nhà thơ đầy bản lĩnh.
Chú thích:
1. Từ “thái độ” có lẽ là lỗi in sai? Nên hiểu là phong thái hay phong độ.
2. Chữ “Khiến” ở đây cũng không có nghĩa. Không rõ có phải là lỗi in sai?
3. Theo Nguyễn Văn Hoàn trong Nghiên cứu văn học số 6-1962.
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1997 (tr.760-771)

17 bình luận to “Tản Đà với công trình biên khảo Truyện Kiều – VHNA”

  1. Nguyễn văn vị Nhiên Hương 18/07/2012 lúc 11:40 Sáng #

    Nếu so sánh với Tản Đà thì tôi chỉ là vực thẳm còn Tản Đà là núi Thái Sơn ; và Tản Đà cũng giống tôi khi so sánh với Nguyễn Du .
    Nguyễn Du không dốt mà Tản Đà quá hợm mình : ông không những đã “ chơi ngông ” mượn ý Trời , ý Tiên để ca ngợi thơ mình , lại còn thóa mạ một Truyện Kiều nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới , thóa mạ một Đại thi hào dân tộc , một Danh nhân văn hóa Thế giới để làm đòn bảy nâng mình lên , điều này ông không những không “ đóng góp có ý nghĩa vào kho tàng văn học truyền thống ” mà đã làm hoen ố nền văn học nước nhà .
    …Nguyễn Du quá thâm thúy nên khi đọc Truyện Kiều phải vào lúc đêm khuya thanh vắng , yên tĩnh , một mình một ngọn đèn , tư duy cao độ lần dở cẩn trọng từng trang họa chăng mới hiểu được ý thơ của ông chứ không thể mơ hồ “ tầm chương trích cú ” vụn vặt nói tùy tiện ; Nhất là thường thường muốn hiểu được một câu , một chữ thơ Kiều phải đọc quay ngược trở lại hoặc tiếp theo cách hàng chục , hàng trăm câu để khảo cứu – Đó là văn phong cực kì độc đáo có một không hai của ông .
    Tôi sẽ có bài chứng minh sự tài tình dùng chữ “ công ” của Nguyễn Du trong câu thơ :
    “ Xét mình công ít tội nhiều ”
    Kính cảm ơn bạn đọc
    Nguyễn văn vị Nhiên Hương

  2. Nguyễn văn vị Nhiên Hương 09/10/2012 lúc 9:04 Sáng #

    Để thấm thía tài trí phi phàm của Nguyễn Du , trước khi đàm luận về chữ “ công ” trong câu thơ ở Truyện Kiều của ông : “ Ngẫm mình công ít tội nhiều ” , tôi xin phép trình bày ý nghĩa một số câu thơ khác thể hiện văn phong tương tự như câu thơ trên của ông để bạn đọc tham khảo :
    Bài viết thứ 10 :
    Suy Nghĩ Đôi Điều Chưa Được Bàn Tới Thấu Đáo Trong Truyện Kiều Của Nguyễn Du
    Từ xưa tới nay chỉ duy nhất Truyện Kiều của Nguyễn Du được ca ngợi là : “ Truyện của muôn đời viết về những con người muôn thuở ” – Nguyên thứ trưởng Bộ giáo dục Võ Thuần Nho đã nói .
    Ấy là chúng ta mới chỉ nhìn nhận tài năng sáng tạo , biến tấu một cốt truyện xưa mang sắc thái mới thời đó ; bằng thể loại vần điệu mượt mà dễ thuộc , tình tiết mới éo le chí lý , với kết cục có hậu và đặc biệt có nhiều lời hay , ý đẹp cùng tài ba khéo léo vận dụng ca dao , tục ngữ , chuyện dân gian vào thơ Kiều , và ngược lại thơ Kiều có câu đã thành ca dao , tục ngữ ; ông còn chế tác nhuần nhuyễn đến mức Việt hoá điển cố , điển tích Trung Hoa . ( Thêm nữa là lối chơi chữ diệu huyền (1) của ông ) – mà chúng ta chưa khảo cứu , để ý đến một phương diện rất độc đáo có một không hai trong văn phong của Nguyễn Du , đó là : sự móc nối lẫn nhau về ý nghĩa giữa các từ ngữ , các câu thơ viết cách xa nhau rất bí ẩn và vô cùng kỳ thú ở mọi lĩnh vực : khoa học tự nhiên , khoa học xã hội , triết học v.v và v.v…
    Xin cùng suy xét , nghiền ngẫm đôi điều ở những câu thơ sau :
    “ Cỏ non xanh rợn chân trời ” ( câu 41 ) – tinh ý chúng ta sẽ thấy hiển hiện trước mắt một bãi đất rất dài , có cỏ xanh non ,dài mãi xa tắp tít chân trời ( dù “ tận ” hay “ rợn ” thì đã đến chân trời đều là xa cả . Theo tôi Nguyễn Du không viết thừa chữ thiếu ý với chữ “tận” tầm thường ).Để nối tiếp ý , cách tám câu thơ sau ông lại gieo một câu thơ chấm phá :
    “ Ngổn ngang gò đống kéo lên ” ( câu 49 ) – thì rõ ràng chiều ngang của bãi tha ma này rộng lớn quá , rộng tới mức có rất nhiều gò đống cao ngập đầu người , đến nỗi người đứng ở bên này gò không nhìn thấy người đi ở bên kia , mãi tới khi họ lũ lượt nhô dần lên đỉnh gò đống : kẻ chênh chếch đi ngang , người tấp nập bước dọc mới biết là :
    ngổn ngang người
    ở “ Ngổn ngang gò đống…” (2)
    Liệu có ai nghĩ ra , viết nổi chỉ bằng hai câu thơ miêu tả thôi ( c 41 và c 49 ) mà lại là một cách đo ước lệ chiều dài , chiều rộng mênh mông của bãi tha ma – ẩn ý , tài tình khiến nhiều người chúng ta xưa nay vẫn không ngờ tới – toán học . ( Nguyên thứ trưởng Bộ giáo dục Võ Thuần Nho từng nêu đại ý là Nguyễn Du đã có ý tứ về Vật lý ở bài Văn tế thập loại chúng sinh trong câu : “ Đòn gánh chín rạn hai vai ” )
    … Ở một ý tứ khác , xin trở lại câu thơ :
    “ Cỏ non xanh rợn chân trời ”
    Ai cũng biết là màu xanh có nhiều dạng : xanh xanh , xanh lục , xanh lam .v.v… , còn “ xanh rợn ” thì chỉ có Nguyễn Du sáng tạo ra ( cùng với các chữ : “Sè sè” , “Dàu dàu” , “áy” rất mới lạ , đầy cảm xúc , ngoài hình thái ) , đó là một màu xanh tươi mơn mởn của cỏ non vào buổi sáng mùa xuân ( sau một năm trời trước khi có người đi tảo mộ ) ; song cái màu xanh rờn rợn ấy như báo hiệu trước một sự bất chắc . Và đúng thế , ngay buổi chiều hôm đó cỏ non xanh này đã biến đổi màu sắc rất thê thảm : “ Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh ” ( c 58 ) . Thậm chí nó còn thương tâm đến nỗi : “ Một vùng cỏ áy bong tà ” ( c 97 ) – màu sắc “ áy ” úa của cỏ xanh non có nhựa loang loáng dưới ánh nắng chiều tà khác hẳn màu sắc héo lụi quăn queo của cỏ già khi cùng bị dẫm đạp như nhau do người đi tảo mộ .
    Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Du đã so sánh sự huỷ diệt nhanh chóng một sớm một chiều của cỏ non xanh này không khác gì cuộc đời ngắn ngủi của Đạm Tiên , nàng còn trẻ trung đầy sức sống như thế mà đã “… thoắt gãy cành thiên hương ” ( “ Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương ” – c 66 ) phải chăng lòng nhân đạo (3) của ông ở đây lại là cảnh báo về hậu hoạ tang thương cho những người con gái khác làm nghề kỹ nữ ( sự móc nối lẫn nhau về ý nghĩa giữa hai câu thơ thứ 41 và 97 là như thế ! ) .
    … Xin tiếp tục suy xét hai câu thơ khác viết cách xa nhau hơn nữa để thấy thêm điều lý thú , dù có nỗi xót xa ( c 92 và c 216 ) :
    “ Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương” ( c 92 )
    Có ý kiến cho rằng ở đây Nguyễn Du muốn nói là nén “tâm hương” chứ chị em Thuý Kiều đã ra về rồi còn lấy đâu hương nữa mà thắp ( “Chị em thơ thẩn dan tay ra về” – c 52 ) – một PGS tiến sĩ phê bình văn học đã nói đại ý như thế .
    Song , nếu chúng ta chỉ cần chú ý một chút và có thực tế là đã từng đi tảo mộ thì thấy rất rõ từ “sẵn đây” của Nguyễn Du viết rất xác đáng ; bởi vì :
    Trước khi đi tảo mộ không ai tính đếm xem có bao nhiêu ngôi mộ để mang bấy nhiêu nén hương mà thường thường họ cầm theo dăm , ba , bảy thẻ hương , nắm hương . Ở những ngôi mộ đầu người ta thường thắp một hoặc ba nén hương , đến những ngôi mộ cuối còn thừa nhiều , họ cắm hết chứ không ai mang hương đó về nhà cả . Khi Thuý Kiều khóc than sướt mướt ở mả Đạm Tiên thì Thuý Vân và Vương Quan đứng nhìn quanh quẩn thấy ở những ngôi mộ gần đấy có nhiều hương , hai người đã đi ngang bước dọc đến tỉa bớt (4) hương có ở “Sẵn đây…” đem về đưa cho Thuý Kiều hoặc tự mình cắm vào mả Đạm Tiên :
    Đó là hương thừa .
    Thế rồi , mãi tới 124 câu thơ sau ,Nguyễn Du mới gieo tiếp :
    “Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây” – (c 216 )
    Đây không phải là hương thừa hoa thải sau nghi lễ , vả lại bóng dáng hồn ma hiển hiện thời xưa thì người ta rất kính cẩn , thế sao Nguyễn Du không viết là :
    Hương thơm dường hãy ra vào đâu đây .
    hay ít ra ông cũng có thể viết là :
    Hương còn phảng phất ra vào đâu đây .
    mà ông lại dùng từ “Hương thừa” .
    Như vậy : những nén hương có từ kiếm được ở “Sẵn đây” nói trên và mùi hương tự thân của bóng dáng hồn ma Đạm Tiên toát ra , tất cả đều là “Hương thừa” . Có lẽ :
    Đó là dụng ý vô cùng thâm thuý của Nguyễn Du mà ít người để ý tới – dù chỉ sử dụng có một từ thôi đã như nhắc lại , khuyến cáo tiếp rằng cái nghề kỹ nữ không những sớm kết liễu cuộc đời mà ngay khi còn sống thì phải làm vợ khắp mọi người đàn ông , đến lúc chết thì làm con ma không chồng , con ma cô đơn , cô độc , cô quả mà thời đó là sự nguyền rủa đắng cay . ( “Sống làm vợ khắp người ta” ( c 87 ) . “Hại thay thác xuống làm ma không chồng” ( c 88 ) ) .
    Thậm chí , trong ngày thanh minh ở những ngôi mộ khác : vợ , chồng , con cái , cháu chắt người ta kính cẩn khói hương nghi ngút , tiền vàng tràn trề ( “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” ( c 50 ) ) thì dù rằng ngôi mộ của Đạm Tiên ở ngay bên đường đi , cũng không có một ai đắp điếm , nắng mưa bào mòn ; đau đớn thay lại bị nhiều người đẫm đạp (5) lên đến nỗi chỉ còn thấp tè một nấm đất thảm hại ( “ Sè sè nấm đất bên đường” ( c 57 ) ) và không có lấy dù chỉ một nén hương tử tế ; may thay được chị em Thuý Kiều cắm cho mấy nén “hương thừa” ( các câu : 41,49 – 41,97 – 92,216 cùng với các câu : 50,57,58,87,88 móc nối triết lý )
    … Bây giờ chúng ta lại tìm hiểu sang một lĩnh vực khác nữa để thấy cách bố cục ý tứ lắt léo rất tài tình giữa các câu thơ cũng cách xa nhau có mối liên quan ý nghĩa với nhau ( các câu thơ thứ : 612,648,829,830 ) :
    Một nhà thơ đương đại thắc mắc đại ý : tại sao Mã Giám Sinh đã đồng ý mua Thuý Kiều với giá bốn trăm lạng vàng rồi :
    “ Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” ( c 648 )
    thế mà sau đó chính hắn lại tự nhủ là chỉ cần có ba trăm lạng vàng cũng đã đủ vốn :
    “Hẳn ba trăm lạng kém đâu ( c 829)
    Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời” ( c 830 )
    như thế có lẽ Nguyễn Du đã nhầm lẫn chăng ?
    Không ! Xin thưa rằng Nguyễn Du không bao giờ nhầm lẩn cả , chỉ có chúng ta nhầm lẫn mà thôi , hay nói đúng hơn là không hiểu nổi ý tứ sâu xa của ông .
    Xin chưa bàn đến tài chí tổng hợp trên thực tế ở khắp mọi nơi và ở các sách vở , kinh điển ; với trí tuệ uyên thâm cùng tính cách rất cẩn thận , sâu sát từng ly , từng tý của Nguyễn Du đã dụng tâm hun đúc : ý tứ , chữ nghĩa từ lúc trẻ đến khi đọc truyện của Thanh Tâm Tài Nhân , mới chấp bút và tận cuối đời mới sản sinh ra Truyện Kiều , thì làm sao có thể sai sót được dù mảy may mà khi tác phẩm này ra đời , ông vẫn thừa minh mẫn nên mới được vua Nguyễn cử đi sứ lần thứ hai chứ ( năm 1820 )
    Sao lại bảo Nguyễn Du nhầm lẫn được . Đó là ông hiểu tâm lý xã hội rất thâm hậu : khinh rẻ con buôn , tôn vinh phẩm giá nhà nho .
    Sự thể thế này : khách ở phương xa ( “viễn khách” – trích câu 624 ) từ Lam Kiều đến Lôi Châu mua Thuý Kiều ; khi Mã Giám Sinh còn “lạ nước , lạ cái” hắn chưa rõ hết nội tình , chỉ hành nghề theo bản năng rất cẩn thận ( “Đắn đo cân sắc cân tài” ( c 639 ) , “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”( c 640 ) ) thì thấy quá ưng ý rồi ( “Mặn nồng một vẻ một ưa” ( c 645 ) ) . Có lẽ so sánh với những “món hàng” khác , hắn cũng thấy giá cả xứng đáng như lời bà mối nói ( “Mối rằng : Giá đáng nghìn vàng” ( c 645 ) ) nên mặc dù rất keo kiệt , bủn xỉn , “cò kè” thời gian dài , bớt xén từng đồng , nhưng khi đến giá bốn trăm lạng vàng thì hắn thấy quá rẻ rồi nên đã đồng ý mua ( “ngã giá” ) ; song hắn đã phải trả tiền ngay đâu , mà tương tự như ngày nay chúng ta mua bất động sản thường đặt cọc tiền trước – hắn chỉ mới đưa canh thiếp để làm tin thôi ( “Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi” ( c 650 ) ) . Vì “Tiền lưng đã sẵn…” ( c 652 ) nên chỉ chờ làm thủ tục , nghi lễ cưới xin ( “Hẹn ngày nạp thái vu qui” ( c 651 ) ) do đó có thời gian dài để tìm hiểu mọi mặt ; với bản chất sợ hớ ( 6 ) của con buôn , hắn đã dò hỏi biết rằng chỉ cần có ba trăm lạng vàng là đủ chuộc được Vương ông rồi :
    “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi” ( c 612 ) – muốn hiểu ý nghĩa c 830 phải đọc ngược lại 218 c .
    Vì thế hắn đã giở mặt lật lọng , bắt bí ( 7 ) và thực tế chỉ trả ba trăm lạng mà thôi .
    Còn gia đình Vương ông bản chất nhà nho giáo “trọng nghĩa khinh tài” lại rất chất phác nên khi bị bắt bí dù phải mất đi hàng trăm lạng vàng vẫn đành chấp nhận , miễn sao cứu được Vương ông ; khỏi hoạn nạn . Xin nhấn mạnh lại :
    Đó là dụng ý rất thâm sâu về lĩnh vực tâm lý xã hội của Nguyễn Du , ông đã bí hiểm nêu bật tính cách mỗi dạng người , hạng người đặc trưng trong xã hội thời đó : “ người ba đấng , của ba loài” là như thế đấy !
    … Với hơn ba nghìn câu thơ , không thể đòi hỏi sự hoàn chỉnh mọi mặt , Nguyên Du thường coi trọng ý tứ thâm thuý ( ngôn tại ý ngoại ) , trọng cái lớn “đại sự” hơn là vận thơ “tiểu tiết” khi cần thiết , nên ở Truyện Kiều có câu thơ mặc dù không hợp vần , nhưng ý tứ , ý nghĩa chỉ một từ thôi cũng thật là bất hủ , như ở câu thơ sau :
    “Khóc rằng : Trí dũng có thừa
    Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này” ( c 2530 )
    Có ý kiến cho rằng : “ … việc chàng không hoá lại cho thiếp một cơ hội là được tạ lỗi với chàng bằng mạng sống của mình …” – một PGS tiến sĩ phê bình văn học khác nói thế .
    Chắc rằng Nguyễn Du không bao giờ dùng từ “cơ hội” này cho Thuý Kiều đâu ! Nếu chúng ta quay ngược lại bảy mươi tư câu thơ thì sẽ hiểu rõ thâm ý của ông :
    “Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn” ( c 2456 )
    thì rõ ràng Hồ Tôn Hiến nắm được cơ hội là Thuý Kiều thường được bàn việc quân với Từ Hải , nên hắn đã lừa gạt Thuý Kiều dụ Từ Hải đầu hàng để hắn hạ sát . Do đó “cơ hội” ở đây hay nói cách khác là “cơ hội này” ( mà Từ Hải , Thuý Kiều tang tóc , đau thương ) là của Hồ Tôn Hiến . ( Hai câu thơ : 2456 và 2530 móc nối ý nghĩa ).
    … Một lần nữa , xin lưu ý là rất nhiều câu thơ Kiều của Nguyễn Du viết cách xa nhau cùng móc nối lẫn nhau về ý nghĩa sâu xa , rất bí ẩn kỳ thú như nêu trên ( và thường thường muốn hiểu ý nghĩa của câu chữ sau phải quay ngược trở lại đọc các câu chữ viết trước hoặc sau , có khi cách rất xa ) , với phạm vi một bài này , người viết chỉ xin phép nêu lên đôi điều để bạn đọc tham khảo , thưởng thức và đặc biệt là mở thêm hướng nghiên cứu về một khía cạnh rất độc đáo , tài tình trong văn phong của Nguyễn Du ( tôi xin chứng minh tiếp ở những bài viết khác có các câu , chữ kiểu như thế )
    Mong rằng sự truyền bá không vị kỷ điều này để đời nay và mãi mãi con cháu chúng ta mai sau không hiểu sai dụng ý ( qua tài ba , thi pháp ) của Nguyễn Du , như những ý kiến đã nêu trên để càng thấy rõ sự trong sáng , mẫu mực của ý tứ , văn từ thơ Kiều , tránh tội lỗi với tiền nhân , đó cũng là nén tâm hương kính cẩn dâng lên Ngài cùng tiếng khóc thương như ông đoán nguyện :
    “Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” ( Độc Tiểu Thanh ký )
    Tháng 6 – 2010
    Bút danh : Nguyễn văn vị Nhiên Hương .
    Chú thích :
    (1)diệu huyền : Câu thơ thứ 1638 : “ Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời” là chữ tâm , mà tên của Thúc Sinh là Kỳ Tâm , hình ảnh chơi chữ này ngầm nói lên Thuý Kiều đang nhớ Thúc Sinh .
    (2)Ngổn ngang gò đống : Thời xưa người ít , đất nhiều ; bãi tha ma mênh mông hoang sợ rất nhiều gò đống to , nhỏ ; chứ không bằng phẳng như ngày nay . Mỗi năm chỉ có một lần người đến đông đúc để tảo mộ , còn thường ngày vắng ngắt .
    (3)nhân đạo : Tôi không giám bàn về giá trị : nội dung , nghệ thuật , tư tưởng tác phẩm này bởi đã quá nhiều bậc cha ông tầm cỡ nói sâu sắc , chỉ xin phỏng đoán một vài khía cạnh chưa bàn tới như điều này .
    (4)tỉa bớt : Nhiều điều tuy văn cảnh trong thơ Kiều không có , nhưng thường có thực tế thời xưa , nên lúc đó không ai thắc mắc . Đến bây giờ chúng ta mới khó hiểu vì không còn những điều thực tế đó.
    (5)dẫm đạp : tâm lý ai cũng muốn mồ yên mả đẹp , thế mà mộ Đạm Tiên không có người đắp – thấp quá , lại ở bên đường nên bị nhiều người dẫm đạp lên rất thương tâm .
    (6)sợ hớ : là đã mặc cả đồng ý giá rồi nhưng sợ bị đắt . Tuy văn cảnh không có , nhưng đó là thực tế không chỉ ở thời xưa mà thường thấy ngay cả ngày nay ở tính cách của con buôn không chân chính.
    (7)bắt bí : ép buộc người khác phải làm theo ý mình , có lợi cho mình khi họ khó khăn hoạn nạn .

  3. nm 09/10/2012 lúc 7:20 Chiều #

    ???

  4. Nguyễn văn vị Nhiên Hương 20/10/2012 lúc 10:02 Sáng #

    Bài viết thứ 13 :
    Nhân đọc trích đoạn phê bình thơ
    Kiều Nguyễn Du của thi sĩ Tản Đà :
    “…như câu : “Nghĩ mình công ít tội
    nhiều” một chữ “công” đó thật là
    quá dốt … ĐPTB số 638_1927” .

    Một chữ “công” thâm thuý với tâm lý xã hội rất sâu sắc của Nguyễn Du .
    ( hay Suy nghĩ về một chữ “công” kỳ bí trong kho tàng ngôn ngữ Tiếng Việt vô giá của Nguyễn Du ) .
    Nguyễn Du quả thật tài tình
    Chữ công nào dễ phân minh , tỏ tường …
    Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có rất nhiều từ ngữ mang ý nghĩa thâm thuý , rất bí ẩn , nếu chỉ hiểu trần trụi thì sẽ dẫn đến sai lệch đáng kể , điều này không tránh khỏi kể cả ở những văn sĩ tài hoa .
    Chữ “công” trong câu thơ thứ 2559 là một trong những câu thơ có ý nghĩa bí ẩn như thế :
    “Ngẫm mình công ít tội nhiều”
    Phải chăng Nguyễn Du đã dễ dãi cho Thuý Kiều nói lên cái “công” giết chồng ư ? _ dù đó là sự nhẹ dạ cả tin của “nữ nhi thường tình” .
    Không đâu ! _ sự tài tình trong văn phong rất độc đáo có một không hai của ông là như thế đấy ! _ khiến nhiều người kể cả văn nhân , học giả có danh tiếng cũng nhầm tưởng ngỡ ngàng , gây bàn cãi mãi không dứt …
    Thế mới là Nguyễn Du ! …
    Thường thường ông “tung” ra một vài từ ngữ ở một vài câu thơ nào đó làm người khác hiểu sai lệch ý ông , rồi ông lại “hứng” rất bí ẩn bằng hàng loạt câu thơ khác ở trước hoặc sau đó , có khi cả trước lẫn sau mà cách xa hàng chục , hàng trăm câu thơ .
    Như thế , để thấy rõ ý nghĩa chữ “công” nêu trên , trường hợp này , phải khảo cứu ý nghĩa các câu thơ “hứng” : chừng hơn bốn mươi câu trước đó và hai câu sau đó nữa . Xin bắt đầu :
    “Triều đình riêng một góc trời _ c 2441
    Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà”. _ c 2442
    Hai câu thơ trên thể hiện thanh thế ngang ngửa , cân bằng của Từ Hải với triều đình nhà Minh ( Từ từng hùng cứ một phương đã hàng năm năm trời ) ; và nữa :
    “Sức này đã dễ làm gì được nhau _ c 2470
    Chọc trời khấy nước mặc dầu _ c 2471
    Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” _ c 2472
    Ba câu thơ này chứng tỏ sức mạnh phi thường và chí khí , niềm tự tin của Từ Hải đủ khả năng đương đầu với triều đình nhà Minh trong mọi hoàn cảnh , ở mọi chốn , mọi nơi .
    Như vậy , thanh thế , sức mạnh , tài trí của Từ Hải có thể coi là vô địch ,Tôn Hiến phải nhờ đến lời “Khéo khuyên …” của Thuý Kiều mới tiêu diệt được Từ Hải , thì công ấy của Thuý Kiều phải là công nhiều , công to , công đầu . Ngay chính Hiến cũng đã phải thừa nhận là nhờ công của Thuý Kiều hắn “mới nên” chiến thắng Từ Hải:
    “Giúp công cũng có lời nàng mới nên”_C2544.
    Từ công nhiều , công to , Nguyễn Du lại để Thuý kiều nói ngược lại với Tôn Hiến là “công ít” chính là mục đích riêng úp mở của ông.
    Còn “tội nhiều” thì với triều đình nhà Minh , Kiều chỉ có công nhiều chứ không có tội gì cả . Ngay việc làm vợ một kẻ tội đồ thì đương nhiên trước khi gặp Kiều Từ Hải đã chống lại triều đình,chứ không phải Thuý Kiều lấy Từ Hải từ khi khởi nghiệp mà coi là tội đồng loã.
    Đều là nói ngược lại , Nguyễn Du đã cố ý để Thuý Kiều nói trước mặt Hiến từ : không có tội ra “tội nhiều” .
    Nếu nghĩ giản đơn thì đây là do hạn chế của chữ Nôm không có dấu ngoặc kép ( “…” ) nên Nguyễn Du không biểu lộ được ý văn từ theo ý mình ; hoặc nữa là ông đã mượn câu nói cửa miệng khiêm nhường qua quýt của người xưa khi đứng trước cửa quan để gán cho Kiều . ( Duy xét về hoàn cảnh : dòng dõi Dại quí tộc , với quan điểm tôi trung “Trên vì nước , dưới vì nhà” ( c 2683 ) và với quan niệm nhân ái theo đạo Phật “Hại một người cứu muôn người” ( c 2685) của ông , thì “công ít” , “tội nhiều” _ công , tội ở đây có lẽ Nguyễn Du nghĩ về mình _ nhân vật nói lên tâm tư của tác giả , chứ không phải công , tội của Thuý Kiều ) .
    Song , suy cho cùng , thì có lẽ Nguyễn Du đã để Thuý Kiều nói với Hiến về “công ít” , “tội nhiều” đó của nàng chính là với Từ Hải :
    Thuý Kiều đã có công đem hạnh phúc cho Từ Hải và là người tri âm , tri kỷ với Từ Hải , đặc biệt vô hình chung , nàng đã thôi thúc Từ lập được chiến công hiển hách để xứng đáng với người đẹp tâm giao như lời chàng tam đắc và hẹn nguyện :
    “Từ rằng : Tâm phúc tương cờ” ( c 2179 )
    và … “ Bao giờ mười vạn tinh binh (c 2221 )
    Tiếng chiêng dậy đất , bóng tinh rợp đường ( c 2222 )
    Làm cho rõ mặt phi thường ( c 2223 )
    Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” ( c 2224 )
    Tuy nhiên , dù bất kỳ lý do gì kể cả vô tình : mà vì nàng dẫn đến cái chết của Từ Hải – một ân nhân đã cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh nhơ nhuốc , đưa nàng từ vị thế xấu xa nhất của xã hội mà theo quan niệm thời đó là “xướng ca vô loài” , là “bán thân nuôi miệng” , lên thang bậc chót vót là người có uy danh , uy quyền vào hàng đứng đầu thiên hạ _ nếu so sánh : thì cái công của nàng với Từ Hải là quá ít , còn cái tội đáng ân hận suốt đời , không thể sửa chữa được lại quá nhiều , quá to .
    Luận “công ít” , “tội nhiều” như trên chỉ là chiết tự ( xin tạm coi là chiết tự Việt ngữ ) . Song điều đáng nói ở chữ “công” kỳ bí này là sự tường tận rất xác đáng đến “chân tơ kẽ tóc” của Nguyễn Du về mặt tâm lý xã hội :
    Khác hẳn với Thanh Tâm Tài Nhân ,xây dựng nhân vật Hồ Tôn Hiến , Nguyễn Du đã dày công nêu bật bản chất : -“một tên quan nham hiểm” , đã :
    “Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn”_c2456
    nên hắn đã thực hiện mọi âm mưu mua chuộc Kiều , kể cả :
    “Lại riêng một lẽ với nàng”_c2459
    Đương nhiên Thuý Kiều không phải là con người vì lễ lạt của Hiến , song đây
    – vừa là “thủ đoạn thâm độc” mà hắn tỏ ra thật lòng hứa hẹn ;
    – vừa dẫu sao “tốt lễ dễ kêu” như dân gian thường nói , và Nguyễn Du lại rất cảm thông ;
    -“một tên quan tiểu nhân” đắc trí , hắn không từ bất kỳ thủ đoạn xấu xa bỉ ổi nào kể cả đê hèn nhất là lừa dối một người đàn bà _ mà kẻ sĩ , người quân tử thời xưa rất trọng chữ “tín” dù phải đổi mạng cũng không làm điều vô liêm sỉ đó và dã man nhất là hắn đã sát hại không thương tiếc một tướng đã đầu hàng mà chính hắn đã coi là một con người đáng kính trọng :
    “Biết Từ là đấng anh hùng” _ c 2455
    Vì thế , với một Thuý Kiều gia giáo , trí tuệ của Nguyễn Du thì ngôn từ không thể thô thiển và nhất là nông cạn được như kẻ khác ( nhân vật khác ) . Hơn thế nữa , mục đích chính , “tối hậu nhất” của nàng là cần có một nấm đất chôn cất Từ Hải yên vị mà không bị Tôn Hiến phanh thây thị uy < điều rất kiêng kỵ cho gia chủ thời xưa ) :
    “Xin cho tiện thổ một doi _ c 2561
    Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh” _ c 2562
    Chữ nghĩa Nguyễn Du hơn người là như thế đấy !…
    Thêm vào đó , trước uy lực kinh hoàng của Hồ Tôn Hiến mà chính mắt nàng vừa thấy :
    “Ba bề phát súng , bốn bên kéo cờ” _ c 2514
    … “Ầm ầm sát khí ngất trời ai đương _ c 2524
    Trong hào ngoài luỹ tan hoang” _ c 2525
    thì xem ra : tài trí , sức mạnh , binh quyền to lớn , ghê gớm như Từ Hải mà còn chịu chết đứng , huống hồ với một người đàn bà thân cô , thế cô lại đang nằm trong vòng kiểm toả của kẻ thù tàn bạo , thì lối nói năng của Thuý Kiều lúc đó là rất khôn khéo , tuy khiêm nhường nhưng lại bộc lộ thâm tâm nhận tội trước vong linh của Từ Hải , và chửi khéo Tôn Hiến , dẫu hắn có biết thì cũng chỉ tím mặt , bầm gan mà thôi , chứ không trị tội nàng được…
    Mặc dù ngay trước mặt Tôn Hiến , Thuý Kiều ngang nhiên ca ngợi Từ Hải hết mức :
    “Rằng : Từ là đấng anh hùng” _ c 2549
    như thế khác nào Kiều đã chửi khéo Hiến rằng : Từ là đấng anh hùng thì dĩ nhiên ngược lại Hiến , một đối thủ , phải là kẻ tiểu nhân , mà quan niệm “tiểu nhân” thời xưa là vô cùng tồi tệ , hẹp hòi , ty tiện , sảo trá , đáng khinh bỉ .
    Hơn thế nữa , vẫn trước ba quân ( “Quan quân kẻ lại người qua” _ c 2537 … “Đem nàng đến trước trung quân” _ c 2539 ) Thuý Kiều đã thẳng thừng vạch tội Hiến :
    “Tin tôi nên quá nghe lời” _ c 2551
    … “ Ngỡ là phú quí phụ vinh _ c 2553
    Ai ngờ một phút tan tành thịt xương” _ c 2554
    Đây là một sự thật , một chân lý , là một bản án hùng hồn , đanh thép kết tội Hồ Tôn Hiến của Thuý Kiều , bởi lẽ : vì Từ Hải tin tôi , tôi lại tin ông , ai ngờ ông đại diện cho một chính thể , “… một phương diện quốc gia” _ trích câu 2591 – đã đem “bả vinh hoa” ra dụ dỗ một cánh đê hèn và hành động một cách dã man chưa từng thấy như thế .
    Chưa hết , Thuý Kiều còn hằn học đay đả Tôn Hiến :
    “Khéo khuyên kể lấy làm công _ c 2557
    Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu” _ c 2558
    Như thế , chính Hiến đã kể công của nàng nhiều lần trước đó như câu điển hình 2544 , khiến nàng rất bực dọc , chứ nàng có nhận công đâu , mà chỉ nói là “Khéo khuyên…” _ song sự chua xót cực độ toát lên từ hai câu thơ trên như hình ảnh là Thuý Kiều đang sua tay bảo Hiến đại để : thôi thôi , ông đừng kể cái công ấy nữa , vì ông càng kể ra , tôi lại càng đau lòng về tội lớn với chồng do sự khờ dại nông nổi cả tin của mình ; ông càng kể công tôi , thì tôi lại càng căm thù ông tận xương tuỷ bởi sự hèn hạ , lừa bịp dã man của ông – kẻ tráo trở , quân phản bội !
    Như vậy , một lần nữa xin lưu ý là : đọc một chữ “công” tung ra ở một câu thơ , tóm lược ý nghĩa một số câu thơ hứng trước và sau đó mới thấy rõ Nguyễn Du để Thuý Kiều nói “công ít” , “tội nhiều” trước mặt Hồ Tôn Hiến , trước mặt ba quân tướng sĩ triều đình là rất thâm thuý , không có gì đáng chê trách cả vì nó vừa đạt được ý đồ tâm linh từ đáy lòng nàng là nhận tội lỗi trước vong linh chồng , vừa thực hiện mục đích chính là xin được đất chôn cất chồng yên vị “toàn thi thể” , lại vừa xoa dịu khôn khéo để thực hiện một bản án tố cáo : một kẻ thù đang ngự trị quyền uy sinh sát , một tên quan đại diện cho một chính thể , một quốc gia , một chế độ xã hội tàn bạo đương thời , với những lời lẽ sâu sắc cay độc – nàng đã “đổi bại thành thắng”.
    Chỉ có chữ nghĩa của Nguyễn Du mới diễn tả , diễn đạt được mọi mặt sâu xa như thế : không chỉ riêng Thuý Kiều phải ngẫm nghĩ để biết nói lên điều đó , mà ngay đến chúng ta ở thời đại văn minh cũng phải nghiền ngẫm kỹ lưỡng mới gọi là hiểu được chút ít ý ông.
    Quả thật chữ “công” mà là “công ít” , “tội nhiều” của Nguyễn Du rất tài tình , kỳ bí – vỏn vẹn chỉ ở một câu thơ , với chỉ một chữ thôi , khiến bao đời , bao bậc văn tài ngẫm ngợi khôn cùng :
    “Ngẫm mình công ít tội nhiều”
    *
    * *
    Đọc thêm mới hiểu một điều sáng soi:
    “Xin cho tiện thổ một doi,
    Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.”
    *
    * *
    Nguyễn Du quả thật tài tình!…

    …Xin kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương trước vong linh thi sĩ Tản Đà tài hoa . Rất trân trọng và chân thành cảm tạ công đầu mà Ngài đã dày công lao phát hiện , thắc mắc , giảng giải giúp hậu sinh chúng tôi nhờ đó mới tìm hiểu thêm về chữ nghĩa thâm thuý của Đại Thi Hào Nguyễn Du và học hỏi được nhiều điều…
    Xin trân trọng và chân thành lĩnh hội sự chỉ giáo của bạn đọc mọi mặt…

    10/2012
    Kính
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
    TV:_Bài này không đề cập tới phương diện nghệ thuật . Và không nêu bật ý nghĩa chữ “Ngẫm” hơn hẳn các chữ : “Xét” , “Thấy” , “Nghĩ” _ ở đầu câu thơ 2559 _ mà theo tôi không Nguyễn Du.
    _Tôi xin trình bày tới đây về từ “sàm sỡ” ở câu thơ Kiều thứ 458 và từ : “Đề huề” ở câu thơ Kiều thứ 37 , 278, và 532 .

  5. Nguyễn văn vị Nhiên Hương 23/10/2012 lúc 4:19 Chiều #

    Xin lỗi bạn đọc ở bài thứ 13 bổ khuyết tại câu : … Nguyễn Du lại rất cảm thông ( “Lễ nhiều nói ngọt , nghe lời dễ xiêu” _ c 2474 … “Nở nang mày mặt , rỡ ràng mẹ cha” _ c 2482 )

  6. Nguyễn văn vị Nhiên Hương 23/10/2012 lúc 5:17 Chiều #

    Bài viết thứ tư :
    Sự “tam sao thất bản” ngữ nghĩa rất đáng kể trong thơ Kiều của Nguyễn Du .
    ( Xét hai từ : “sàm sỡ” và “đề huề” )
    Đại thi hào của chúng ta mất năm 1820 , thế mà phải 46 năm sau , mãi đến năm 1866 , chúng ta mới có được bản Kiều Nôm gọi là cổ nhất , nên không tránh khỏi “tam sao thất bản”.
    … Có được bản Kiều của Nguyễn Du tương đối đầy đủ như ngày nay cũng là quí giá lắm rồi , và vô cùng biết ơn các bậc tiền bối đã dày công khảo cứu cho chúng ta được thấm nhuần , ngưỡng mộ về kiệt tác có một không hai này.
    Xin dẫn và so sánh một vài tư liệu , có trình bầy quan điểm riêng của mình ở hai từ: “sàm sỡ” và “đề huề”có lẽ bị “tam sao thất bản” ngữ nghĩa để bạn đọc tham khảo :
    Về từ “sàm sỡ” ,
    theo tôi biết là trong Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân thì khi Kim Trọng bờm sơm Thuý Kiều , đoạn này sách viết : “…Trọng say động lòng dục dở thói xuân tình sàm sỡ… ” , như thế thì “sàm sỡ” ở đây là hợp lẽ , tuy văn từ có thô thiển.
    Nhưng ở câu thơ thứ 458 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , lại viết :
    “Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng ? ”
    thì “sàm sỡ” ở câu thơ này xem ra không hợp lẽ.
    Nguyễn Du thường gọt dũa từ ngữ rất chuẩn mực bất kỳ ở văn từ nào , nên có lẽ vì người khắc chữ , in ấn sai do nguyên nhân là cứ dựa vào từ “sàm sỡ” của Thanh Tâm Tài Nhân , không tìm hiểu văn chương khác nhau ra sao?
    Và nếu lại ngẫm nghĩ suy xét kỹ thì : tuy thuộc loại văn chương bác học , song Nguyễn Du lại thường vận dụng nhiều điều dân dã vào thơ Kiều , như ông đã chỉ rõ :
    “Lời quê chắp nhặt dông dài ” _ c 3253
    nên có lẽ ông đã dùng từ nhàm nhỡ vì nó là lời nói cửa miệng của người nhà quê thời xưa (“chỉ nhàm nhỡ thôi!”)
    Nhàm : là nói nhàm , nói sạo , nói cho qua chuyện , nói để đấy , không tin được ; còn :
    Nhỡ : là làm nhỡ dở sự việc ; ở đây là làm nhỡ dở đời người con gái , vì : Kim Trọng biết Thuý Kiều đã hàng năm trời rồi ( “Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua” _ c 370 ) , vả lại Kim , Kiều đã cùng nhau đính hôn thề thốt ( “Rằng : – “trăm năm cũng từ đây” _ c 355 … “Tiên thề cùng thảo một chương” _ c 447 … “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” _ c 452 ) thế mà cứ “lần khan” mãi , không tỏ rõ “hành động con trai” thì không phải thực lòng , chỉ là nói nhàm , chỉ để nhỡ nhàng , nhỡ dở người ta thôi . Dù sao đi nữa , dù bất kỳ lý do nào , dẫu suy luận về từ kiểu gì , thì rõ ràng ở đây trường hợp này , từ ‘nhàm nhỡ’ vẫn hợp lẽ hơn từ “sàm sỡ” . Như thế câu thơ đó có lẽ Nguyễn Du viết là :
    Sợ lần khân quá ra nhàm nhỡ chăng ?
    Rất tâm lý … , lại còn rất tế nhị , rất nho nhã , khác hẳn với Thanh Tâm Tài Nhân , Nguyễn Du đã cho Kim Trọng lấy một lý do chính đáng để “lả lơi” Thuý Kiều .
    *
    * *
    Về từ “Đề huề”
    ở câu thơ thứ 137 :
    “Đề huề lưng túi gió trăng”
    biểu thị vẻ ung dung , thư thái , thong dong đi chơi hội của một thư sinh nho nhã , nhà giàu nên : “Đề huề…” ở đây là hợp lẽ . Và cũng tương tự như thế , ở câu thơ thứ 278 :
    “Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang .”
    thể hiện sự phấn chấn , thanh thản , đàng hoàng tâm tư nhẹ nhõm của Kim Trọng khi tìm được nhà trọ đúng ý nguyện , hợp hoàn cảnh , ở mé sau nhà Thuý Kiều ( để : “Tường đông nghé mắt ngày ngày hằng trông” _ c 284 ) , nên : “đề huề” ở đây cũng là hợp lẽ .
    Song , riêng câu thơ thứ 532 là :
    “Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề .”
    thì từ “đề huề” ở đây theo tôi là không hợp lẽ _ bởi vì : khi có người thân qua đời dù ở ngay tại nhà mình đã là “tang gia bối rối” thế mà như văn cảnh của Nguyễn Du thì chú ruột Kim Trọng đã mất mà vẫn còn quàn ở Liêu Đông , cách xa quê nhà , hẳn sự đó lại càng thêm bối rối ,chứ không thể gọi là đề huề được . ( Ý này Nguyễn Du sâu sắc hơn Thanh Tâm Tài Nhân viết đại ý là linh cữu đã đưa về quê rồi ) _ Đây có lẽ vẫn là do lỗi in ấn , ghi chép , lại một nguyên nhân sơ đẳng là theo cảm tính cứ dựa vào từ “đề huề” ở hai câu thơ thứ 137 và 278 trước đó , nên nghĩ rằng ở câu thơ thứ 532 này cũng như vậy thành ra lại dễ dãi dập khuôn mà không suy xét ngữ nghĩa ra sao ở mỗi chỗ khác nhau . ( Nếu xét riêng hoàn cảnh của Kim Trọng lúc bấy giờ thì : Như nghi lễ thời xưa coi trọng “chú cũng như cha” , nên sự chú mất là rất hệ trọng , buộc lòng Kim Trọng phải đi đưa linh cữu từ Liêu Đông về quê nhà ; … còn tình yêu đến với Thuý Kiều mà Trọng đeo đẳng mãi , rất dày công , lại mới vừa được thề nguyền rất đắm say , thì đây cũng lại là điều vô cùng nan giải ; trước sự thể đôi đường rắc rối như thế cũng không thể coi hoàn cảnh này là “đề huề” , đàng hoàng được ) .
    …Ngoài ra , thậm chí có nhà nho nào đó thấy từ “đề huề” ở câu thơ này không hợp lẽ lại cũng dễ dãi nốt , đã thay đổi cả một đoạn thơ khác : mang tính kể lể , lủng củng , chữ nghĩa vụng về , tầm thường , hoàn toàn không đúng với lối thơ văn ý nhị của Nguyễn Du . Xin trích dẫn ở trang 192 sách Truyện Kiều _ Hà Huy Giáp giới thiệu , Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích . Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp _ Hà Nội 1973 :
    “Khảo dị
    531-534 Bản KOM đã theo bản Kinh chép bốn câu này thành sáu câu :
    Mở xem thủ bút nghiêm đường ,
    Nhắn rằng : “Thúc phụ xa đường mệnh chung .
    “Hãy còn kỷ táng Liêu _ đông ,
    “Cố hương khơi diễn nghìn trùng sơn khê .
    “Rày đưa linh thấn về quê ,
    “Thế nào con cũng phải về hộ tang” ( K23 ) ”
    Vẫn như quan điểm nêu trên là chữ nghĩa của Nguyễn Du rất chuẩn mực , ông lại rất giàu từ , kể cả sáng tạo mới , thì không lẽ nào ông lại viết như thế , có lẽ ở câu thơ đó Nguyễn Du đã dùng từ “bộn bề” chứ không phải là “đề huề” :
    Bơ vơ lữ thấn tha hương bộn bề .
    Kính thưa bạn đọc , kính thưa các vị có trách nhiêm , nếu những điều tôi trình bày trên là hợp lẽ , thì theo tôi nghĩ đã đến lúc không nên đánh đồng tài trí của một bậc Đại thi hào dân tộc , một danh nhân văn hoá thế giới như những người khác với văn thơ _ vì đây là thước đo chuẩn mực của nhân loại văn minh .
    Do đó , không lẽ cứ mãi mãi chấp nhận song song tồn tại sự nhầm lẫn của người khác ( chỉ vì lý do không có bản gốc ) ở thơ Kiều của Nguyễn Du , như các từ : “sàm sỡ” , “đề huề” , hoặc đoạn thơ vô duyên đươc khảo dị nêu trên , làm lăn tăn đến danh tiếng một bậc kỳ tài ( dù mù không thể nhoà được mưa ) .
    Vì vậy , chúng ta nên chăng chỉnh sửa với tâm huyết , vô tư những sai sót đó , để đúng ý tứ của Nguyễn Du , mà theo tôi cũng là tấm lòng thành kính tri ân , dâng lên Ngài ; và để lớp trẻ ngày nay và mai sau dù không biết sự , cảnh thời xưa , cũng có thể thấm nhuần chân giá trị của thơ Kiều .
    Kính mong bạn đọc tham khảo chỉ giáo .
    Xin trân trọng cảm ơn ! …
    ( Do phải chi phối thời gian , tôi xin mạn phép trình bày dần những bài viết khác về những tìm hiểu tương tự nêu trên trong nhiều câu thơ khác ở Truyện Kiều của Nguyễn Du , và các bài :
    -Bản gốc Truyện Kiều của Nguyễn Du tìm ở đâu ?
    -Hiểu thế nào cho đúng ý nghĩa câu ca dao bất hủ :
    “Muốn sang thì bắc cầu kiều ,
    Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”.
    Rất mong sự chiếu cố của bạn đọc … )
    Tháng 12 – 2009 .
    Kính
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương .
    TV : những trích dẫn đều tôn trọng nguyên bản kể cả các dấu , đúng sai không phải do người viết .

  7. Ẩn danh 24/11/2012 lúc 7:25 Chiều #

    Bài viết thứ 14: Thơ “phỏng dựa” và những “cảm nhận” bài thơ: “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến của thi sĩ tài hoa TẢN ĐÀ.
    Quan điểm của mỗi người mỗi khác về điều này, điều nọ…,
    Ý thích của mỗi người cũng khác nhau…
    Tôi rất kính trọng danh giá và tài trí của nhà thơ Nguyễn Khuyến, cùng với những bài thơ hay của ông, nhưng lại không hào hứng về bài thơ “Thằng Bán Tơ”; ngược lại tôi rất thích thú với bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” của thi sĩ tài hoa Tản Đà – cùng nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du.
    CẢM PHỤC bài thơ hay đó về chữ nghĩa, nhưng không đồng nhất quan điểm của ông, đã đánh giá Thúy Kiều là con người dễ “thay lòng đổi dạ”, thậm chí còn “quá kiên tâm” kể cả vào hoàn cảnh cùng một lúc: đau thương vẫn hát xướng; mà tôi theo quan điểm của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã vượt qua thời đại, bỏ qua quan niệm nho giáo, ông mượn “số trời” của đạo Phật, coi hành sử của Thúy Kiều là do hoàn cảnh bắt buộc; “số phận” nàng phải thế, rất đáng thương tâm; (và như bài viết thứ 13 tôi đã nêu: Thúy Kiều căm hờn Tôn Hiến), nên có bài thơ phỏng dựa để bạn đọc tham khảo chỉ giáo như một món ăn tinh thần suy nghĩ về tài làm thơ giầu ý, nhiều tứ của người xưa:

    Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến
    Tiếng sấm ân tình bố bể ran
    Tương quân chi tiếc cánh hoa tàn
    Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng
    Nửa đám ma chồng nửa tiệc quân
    Tổng đốc ví thương người bạc phận
    Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan
    Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ
    Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn
    TẢN ĐÀ 1927
    Phỏng dựa bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến”
    “Sét đánh ngang tai”, nỗi kinh hoàng!
    Hồ công ảo tưởng “cánh hoa tàn”.
    Khóc chồng khôn xiết hai hàng lệ…
    Chịu ép tiệc quan để trọn tang.
    Tổng đốc “dẫu” thương Kiều mệnh bạc,
    Tiền Đường “vẫn” chắc mả hồng nhan.
    Thương ôi! nấm đất-lòng chung thủy,
    Từ Hải linh thiêng thấu giọng đàn.
    Nhiên Hương T11/2012

    CẢM NHẬN bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” của thi sĩ tài hoa Tản Đà:
    Nếu thoáng đọc bài thơ này ta chỉ dễ nhận ra điều ông “ví” và nói là “chưa chắc”, còn nếu ngẫm nghĩ từng chữ, từng câu mới thấy cái “thần” của bài thơ với ý, tứ rất sâu xa, ông đã chơi chữ, chơi nghĩa, “ngôn tại ý ngoại”.Hầu hết các câu thơ trong bài thơ, ông đều nêu bật: tự thân và hành sử của Thúy Kiều cùng một lúc: có tương tác hoặc tác động đến cả hai người đàn ông là Từ Hải và Tôn Hiến, không chỉ hiện tại mà cả dĩ vãng: “Tiếng sấm ân tình bốn bể ran” của ông, đã ngầm biểu hiện sức mạnh và tình nghĩa của Hải, của Hiến ảnh hưởng đến Kiều:
    _ “Tiếng sấm… bốn bể ran” của Từ Hải, là:
    “Ngất trời sát khí mơ màng_c2251
    Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh”_c2252
    …“Chọc trời khuấy nước mặc dầu _ c2471
    Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” _ c2472
    _ “Ân tình” của Từ Hải, là:
    Từ đã đưa Thúy Kiều từ lớp người bị xã hội khinh rẻ nhất, lên bậc thang danh vọng, quyền uy cao nhất.
    Còn Tôn Hiến thì sao?
    _ “Tiếng sấm… bốn bể ran” của Tôn Hiến, là:
    “Ầm ầm sát khí ngất trời, ai đương” _ c2524
    _Và “ân tình” của Tôn Hiến, là:
    Hiến đã không giết Thúy Kiều, vợ của đối thủ; vợ của kẻ thù triều đình, điều lớn nhất, hệ trọng nhất với hắn; mà lại còn cho nàng được chôn cất chồng toàn thi thể; không những thế hắn còn định tình tự với nàng.
    Với sự khinh rẻ “cánh hoa tàn” của Tản Đà thì:
    – Thúy Kiều không chỉ khiến Từ Hải dù đã chết vẫn còn luyến tiếc nàng, phải chờ đến khi Kiều phục dưới chân khóc lóc thì Từ mới đi hẳn (và dù rằng Từ còn uất ức căm hờn Hiến, cùng vì Từ quá tin Kiều khuyên).
    – Và cũng vì “cánh hoa tàn” ấy, đã khiến Tôn Hiến phải lưu luyến, ham muốn, không chỉ là:
    “Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han” _ c2540
    mà lại còn ngây dại: “Nghe càng đắm, ngắm càng say _ c2579
    Lạ thay mặt sắt cũng ngây vì tình _ c2580
    Dạy rằng: “Hương lửa ba sinh _ c2581
    Dây loan xin nối cầm lành cho ai!” _ c2582
    ( “Tương quân chi tiếc cánh hoa tàn” )
    Hơn thế nữa, “đôi làn sóng” khuynh thành của Thúy Kiều cũng không chỉ khiến Từ Hải tan tành sự nghiệp đế vương ra mây khói và phải bỏ mạng thương đau mà còn khiến cho Tôn Hiến phải phiêu diêu:
    “Nghĩ mình phương diện quốc gia_c2591
    Quan trên trông xuống người ta trông vào”_c2592
    ( “Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng” )
    Vẫn chưa buông tha, Tản Đà còn chua chát, như ý rằng: lạ thay cùng một lúc với hai sự kiện rất trái ngược nhau- Thúy Kiều vừa lo đám ma chồng mà lại vẫn có thể đàn hát vui thú ở tiệc quan( riêng Nguyễn Du thì khác hẳn, ông đã cám cảnh, thương tâm bằng: “ Một cung gió thảm mưa sầu”_c2569).
    ( “Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan” )
    Và với quan niệm đương nhiên của những nhà nho thời đó, Tản Đà cũng na ná như Nguyễn Công Trứ , ông đã cho rằng Thúy Kiều từng đắm say yêu đương Kim Trọng thề thốt đủ điều ; thế mà bỏ Trọng, nàng đã mặn nồng gắn bó nghĩa vợ, tình chồng mê mệt với Thúc Sinh: “Miệt mài trong cuộc truy hoan”_c1299; bỏ Thúc Sinh nàng lại dễ dàng hòa hợp và nồng nàn chan chứa tình ái với Từ Hải: “Hai bên ý hợp tâm đầu”_c2205 và “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”_c2212. Căn cứ vào diễn biến như thế, nên theo Tản Đà thì nếu Tôn Hiến thương hẳn, chắc rằng Thúy Kiều cũng yên phận tỳ thiếp chứ không tự tử:
    “Tổng đốc ví thương người bạc phận
    Tiền đường chưa chắc mả hồng nhan”
    … Tài chơi chữ của Tản Đà còn ở chỗ ông đã mượn hai chữ “ trơ trơ” của Nguyễn Du trong câu thơ thứ 2528 để so sánh là: – lúc đó Thúy Kiều thương xót Từ Hải hết chừng mực “Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ”, rồi lại đến mức “Thà liều sống chết một ngày với nhau”- c2532 – còn lúc này thì nàng chỉ mê mải phục vụ “tiệc quan”, không dòm ngó gì, không biết đến mộ phần Từ Hải đang đơn độc, trơ vơ:
    “Trơ trơ nấm đất bờ sông nọ”
    Ở câu thơ kết: “Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn” vẫn nêu lên cùng một lúc về “ảnh hưởng” của Thúy Kiều với hai người đàn ông ấy, song ông lại còn thâm trầm chua xót, ý rằng: hồn Từ Hải liệu có nghe thấy những mấy giọng đàn không?- giọng với mình khi còn sống và giọng với Tôn Hiến lúc này. Thật trớ trêu thay!…

    …Tản Đà tuy không vượt qua quan niệm thời đại nhìn nhận về thân phận nàng Kiều như Nguyễn Du với bút pháp tuyệt đỉnh, tri thức tuyệt vời; song chữ nghĩa của ông, ý tứ của ông, hình tượng ông nêu lên trong bài thơ “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến” này quả là trác tuyệt cùng năm tháng…
    Thơ thì hay thật là hay,
    Xem ra dụng ý chua cay thế nào?
    Trung tuần tháng 11-2012
    Nguyễn văn vị Nhiên Hương
    TV:
    _ Câu thơ thứ hai theo tôi hai chữ đầu là: “Tương quân” gồm hai người đàn ông (Từ Hải và Tôn Hiến) thì phù hợp với sự tài tình của toàn bài thơ, chứ nếu là “Tướng quân” như một số bản viết thì chỉ nêu một mình Tôn Hiến và câu thơ có lẽ không ý nhị hòa đồng cùng toàn bài thơ.
    _ Câu thơ kết có chữ “nghe” xem ra sát ý; nếu là chữ “hay” thì mang tính thơ hơn, không biết bản gốc thế nào?

  8. Ẩn danh 28/02/2013 lúc 10:08 Chiều #

    Bài viết thứ nhất Văn học dân gian Tìm hiểu nguồn gốc của thành ngữ: “Môn đăng – Hộ đối” Con người ta biết rõ được cội nguồn Tổ Tông là lẽ sống. Chữ nghĩa hiểu biết được nguồn gốc thì thâm sâu, lý thú… Câu thành ngữ: “Môn đăng Hộ đối” cũng với ý nghĩa đó.
    Nếu chỉ “tầm chương, trích cú” để định hình, định nghĩa từng chữ như kiểu: “đăng” cũng là “đương” là “đang” hay là “đèn”… thì không đem lại lợi ích gì về sự hiểu biết nguồn gốc và giá trị của thành ngữ này, mà chỉ tốn “giấy mực”, công sức vì thế có nên theo lời dạy của vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi thì hữu ích hơn chăng?- “Đọc sách phải thông đòi nghĩa sách”.
    … Và nếu chỉ cần hiểu thành ngữ này ở sự tương quan về mọi mặt giữa hai bên gia đình và đôi trai gái, với “xứng đôi, phải lứa”… thì người không biết chữ cũng rõ điều đó.
    … Khác với văn chương bác học là chỉ cần đọc biết một số sách, về: từ ngữ, kinh điển, tích cố… là đủ giảng giải các câu chữ này, nọ.
    Còn văn học dân gian thì cái khó hơn cả là cần biết cách tổng hợp không chỉ là kiến thức ở nhiều loại sách khác nhau, mà còn am hiểu ngay cả ở thực tế đời sống dân giã thời xưa mới giảng giải được ngọn nghành về “chữ” với “nghĩa”, mới thấy hết tinh hoa dân tộc. .
    Vậy nguồn gốc của thành ngữ: “ Môn đăng- Hộ đối có từ đâu”?
    Tuy mang Hán tự, nhưng thành ngữ này đã được Việt hóa dân dã chuyên nghành xây dựng, nên trước tiên văn bản phải trình bầy theo Việt Ngữ mới suy xét đúng nghĩa lý của nó: “Môn đăng- Hộ đối”
    Chữ “Môn”: là cửa chính hay cổng, thường có hai cánh, ở thành ngữ này là Đại Môn.
    Chữ “Đăng” : ở thành ngữ này mang ý nghĩa trình bầy chứ không thể hiểu khác được, hay theo chiết tự Hán nôm; Như thế: ở “cửa” này có nghĩa là trình định kích thước của Đại Môn theo tâm linh; còn nếu ở chuyện lấy vợ, lấy chồng thì điều mặc nhiên là trình bầy, hoặc nêu lên gia cảnh tốt đẹp của bên trai hay bên gái.
    Chữ “Hộ”: là cửa phụ, cũng có nghĩa là căn hộ đó, ngôi nhà đó. Cửa này thường có một cánh .
    Chữ “Đối”: ở thành ngữ này là sự đáp trả phù hợp, cân chỉnh; cũng không thể hiểu khác được như “đối đáp”,hay “câu đối”… vì thế: ở “cửa” thì cần hiểu là: kích thước của cửa phụ phải cân chỉnh với cửa chính cũng theo tâm linh; còn nếu ở việc lấy vợ, lấy chồng thì là sự so sánh mang tính chất đáp lại tương đối cân bằng về mọi mặt của bên gái hoặc bên trai, được mặc nhiên thể hiện hay nêu lên sự: tốt, đẹp, hay, dở…
    Xin đi sâu vào thành ngữ này về phương diện tâm linh mới thấy rõ khởi nguồn của nó.-¬¬¬
    Theo thuyết Địa Lý Phong Thủy phương Đông thì khi xây cất các công trình nhất là nhà ở, ông cha ta buộc phải xét tới hai điều mang tính chất “tâm linh”:
    Thứ nhất là: phải căn cứ vào tuổi của trạch chủ để tính toán chọn hướng nhà cửa.
    Thứ hai là: phải xác định kích cỡ của từng loại cửa cho phù hợp Địa Lý Phong Thủy để hy vọng tạo lên sự hưng thịnh cho trạch chủ và các thành viên trong nhà không chỉ hiện tại mà cả tương lai..
    Để đo đạc xác định kích thước các cửa cho đăng đối, người xưa đã có bốn loại thước khác nhau: Tỷ Phòng, Khúc Xích, Lỗ Ban, Huyền Nữ Xích, nhưng thường thường cho đến ngày nay vẫn dùng là thước Lỗ Ban với các chỉ số “huyền bí tâm linh”, tính toán quy định theo “tám” chữ khác nhau: TÀI, NGHĨA, QUAN, BỔN, BỆNH, LY, KHIẾT, HẠI.
    Phạm vi bài viết này không đi sâu vào các loại thước đó với cách tính toán kích cỡ các cửa, mà chỉ xin đơn cử ý nghĩa tâm linh về sự lựa chọn kích thước cửa chính và một loại cửa phụ . Xin trích dẫn nguyên văn điều này ở một loại sách Địa Lý Phong Thủy:
    -Đại Môn :
    “ Chữ Nghĩa rất tốt lành ứng với cửa Đại Môn đón tiếp vì nó là bộ mặt của trạch chủ ăn ở cư xử với ngoại nhân có nghĩa, có nhân, không lường gạt, tráo trở. Trái lại chữ Nghĩa rất kỵ ở các cửa hành lang vì đây là lối qua lại thông thống của người trong nhà. Do đó, sợi dây nghĩa tình không thể buông thả tự do. Nhưng chữ Nghĩa lại rất tốt cho cửa nhà bếp vì đây là nơi nấu nướng cung cấp đồ ăn thức uống cần phải dồi dào cho sự quảng đại nghĩa tình lo lắng cho sự phúc lợi của gia đình Việt Nam thường nói ăn, ở, phải có nghĩa là do ý này”.
    -Cửa Buồng :
    “Chữ Quan rất kỵ ở cổng lớn ra vào để tránh tình trạng kiện tụng ở cửa quan quyền. Nhưng trái lại ở các cửa buồng riêng lại rất tốt vì sẽ sinh quý tử”.
    Như thế ở thành ngữ này:
    Thứ nhất về “chữ” với “nghĩa”: thì ngay tự thân chữ “Môn” và chữ “Hộ” đã chỉ rõ là hai loại cửa: cửa chính và cửa phụ…
    Thứ hai về thẩm mỹ: Vì chữ “Hộ” còn có nghĩa là căn hộ đó, ngôi nhà đó, nên còn biểu lộ là hai loại cửa chính phụ này cần phải cân chỉnh với ngôi nhà ấy, tuy có phần tâm linh nhưng chủ yếu vẫn là về mặt “thẩm mỹ” .
    Thứ ba về mặt tâm linh là điều chính yếu:
    Đặc biệt sự “đăng đối” giữa cửa chính và các cửa phụ phải theo thuyết Địa Lý Phong Thủy tâm linh như “tám” chữ nêu trên.
    Căn cứ vào ba lý do đó xét thấy câu thành ngữ “Môn đăng- Hộ đối” có nguồn gốc từ việc xây cất nhà cửa.
    Nhưng sau này do sự “đăng đối” giữa các loại cửa đã thành quy tắc được tuân thủ nghiêm ngặt, bởi ngày xưa việc làm nhà là rất trọng đại ( một trong ba việc lớn của đời người là: lấy vợ, làm nhà, tậu trâu) nên trước khi xây cất, người ta phải mời thầy Địa Lý Phong Thủy xem,soi mọi mặt; lại có sách ghi chép tỷ mỉ lưu truyền và người thợ xây, thợ mộc nào cũng dùng thước Lỗ Ban để thống nhất kích cỡ từng loại cửa với chủ nhà; nghĩa là: có sách, có thầy, có thợ để xác định sự “đăng đối” của các loại cửa, nên người ta không cần nói đến thành ngữ này trong việc xây cất nhà cửa nữa.
    Tuy nhiên từ, tính chất gốc gác: hệ trọng tâm linh giữa các loại cửa nêu trên, cộng với quan niệm phong kiến “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa” và mặt khác do tính sĩ diện: danh giá, bề thế gia cảnh bản thân và đôi bên gia đình, giòng họ của trai hay gái, cần “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống” không chấp nhận “đũa mốc đòi tròi mâm son”, nên thành ngữ: “Môn đăng – Hộ đối”
    chuyển hẳn chỉ dùng cho việc xây dựng gia đình với tâm lý xã hội mang mục đích so sánh, cân nhắc, kén chọn, khen chê về mọi mặt: kinh tế, chính trị, địa vị, chức tước, văn hóa, tuổi tác .
    .
    Đó là những nguyên nhân dẫn đến thành ngữ: “Môn đăng- Hộ đối” dù nảy sinh từ việc xây cất nhà cửa lại bị lãng quên, chỉ còn dùng trong việc xây dựng gia đình.
    Thế mới biết nguồn gốc của thành ngữ này hiểu biết được không đơn giản, mà thật lắt léo: “Văn thơ có bẩy, ba đường, Suy sâu, hiểu rộng tỏ tường mới nên… Tháng 1_2013
    Nguyễn Văn vị Nhiên Hương

    TV:_ Thâm sâu: Thâm thúy và sâu sắc _ Vì trích dẫn nguyên văn trong sách Địa Lý Phong Thủy không lược bỏ, chỉnh sửa văn từ nên: cửa Đại Môn ( thừa chữ cửa).
    _ Xin trình bầy sau, bài viết: Tìm hiểu ý nghĩa về nguồn gốc câu ca dao: “ Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” _ Kính mời các quý vị xem trang: vonga1.wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/ tôi có viết một số bài phản hồi về những điều Tản Đà chê thơ Kiều, và cảm nhận bài thơ hay của Tản Đà “Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến”.

  9. Ẩn danh 07/06/2013 lúc 3:27 Chiều #

    KIỂM CHỨNG bút tích và danh tính người làm bài thơ:
    “RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC”, hay là:
    Có nên truy cứu tác giả bài thơ đó không?
    Vì tôi thường tìm hiểu tận cùng nguồn gốc, ý nghĩa thơ văn xưa và nay, nên may mắn được người bạn thích điều đó, đã cắt cho hai bài cùng in trên báo Văn Nghệ Công An: số ra ngày 1- 4- 2013 của Trần Nhuận Minh, và số ra ngày 15- 4- 2013 của Chử Văn Long, nói về bài thơ: “Rắn đầu biếng học”, và chưa xác minh được tác giả; dù cả hai ông đều đã có rất nhiều công sưu tầm, trăn trở. Thậm chí Trần Nhuận Minh với lập luận gồm ba điều đại ý- Một là: Không thấy Lê Quý Đôn viết bài thơ đó ở bất kì đâu. Hai là: Ông cho rằng không có rắn hổ trâu. Ba là: Hai chữ Trâu Lỗ ở câu thơ thứ bẩy là chỉ quê hương Khổng tử và Mạnh tử nên nếu bài thơ này là của Lê Quý Đôn thì chẳng lẽ ông lại quá hỗn hào với bố, dám tự xưng mình là: “… CỤ TỔ CỦA BỐ xin siêng học ”.
    Do đó Trần Nhuận Minh cho rằng: “… đây là bài thơ đời sau làm được truyền tụng trong dân gian rồi gán cho Lê Quý Đôn…” vô tình làm hại đến gia phong họ Lê vì coi thường đạo lý nho giáo nhất là bố ông đang làm ở Bộ Lễ với chức vị “Thiêm sai Đông các hiệu thứ ”, thì không thể tha thứ điều đó được.
    Những điều này tôi xin phép bàn luận ở phần sau, còn có lẽ điều cần thiết hơn cả, theo tôi rằng:
    Do đây là bài thơ cổ, cách chúng ta trên dưới 280 năm, vì thế: nếu ta không được các cụ nhà nho cách chúng ta trên 100 tuổi chỉ bảo thì sẽ không biết được ý tứ, văn từ cổ, dễ dẫn đế hiểu sai lệch sự thật thời xưa và không thấy hết tài ba xuất chúng của tác giả ngay tuổi nhỏ, làm giảm bớt giá trị tuyệt đỉnh của bài thơ này.
    ( Hồi nhỏ tôi được ông nội sinh năm 1899, là nhà nho uyên thâm nổi tiếng trong vùng, cụ am hiểu chính xác trước về thời cuộc, được dân địa phương gọi là thánh sống đã đọc bài thơ đó và giảng giải, theo tôi thì có tính thuyết phục hơn cả so với những bản viết bây giờ do thấy nhiều từ mới lạ, kiên cưỡng quá! )
    Vì thế, tôi xin trình bày căn nguyên bài thơ: “ Rắn đầu biếng học ” này đúng như văn từ cổ, không sai một chữ mà tôi đã thuộc lòng nhớ như in từ rất lâu rồi, để bạn đọc tham khảo:
    “ Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
    Rắn đầu biếng học nhẽ không tha
    Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
    Nay thét mai gầm rát cổ cha
    Ráo mép chỉ quen nhời lếu láo
    Lằn lưng chẳng khỏi vết năm ba
    Từ nay trâu lỗ xin siêng học
    Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia ”
    Về nội dung và nghệ thuật bài thơ “ Thất ngôn bát cú ” này rất nhiều người đã nêu rõ, tôi chỉ xin trình bày sự chuyện, ý tứ, văn từ cổ, để chúng ta cùng xem xét:
    Ở câu thơ đầu có chữ “ cũng ” (“… cũng giống nhà ”) , mới đúng với cách nói của người xưa, ví như- để răn dạy con cháu, các cụ nho gia thường bảo đại ý: Muốn làm gì thì làm cũng phải nghĩ đến thanh danh nhà mình!
    Nay thay chữ “cũng” bằng chữ “vẫn” nghe công thức, cứng nhắc.
    Ở câu thơ thứ hai có chữ “nhẽ ” (“… nhẽ không tha”) có nghĩa là: đáng ra, đáng lẽ không thể tha thứ tội lỗi đó được!
    Chữ “nhẽ ” xưa gần giống ý chữ “lẽ ” ngày nay, nhưng khúc chiết hơn, ngữ điệu mạnh mẽ hơn, vả lại còn tách bạch ý nghĩa giữa hai chữ này, vì:
    Chữ “nhẽ ” hòa nhập cụm từ ở câu thơ thứ hai biểu thị sự phải trái; nhưng cũng có khi lại mang tính so sánh hơn thiệt, như: đáng nhẽ phải làm thế này… có lợi hơn thế kia… ,vv.
    Còn chữ “lẽ ” xưa biểu lộ số thêm, số sau, như: lấy vợ lẽ, làm lẽ vv.
    Nay thay chữ “nhẽ ” bằng chữ “quyết ” (“… quyết không tha ”) hay chữ “ắt ” (“… ắt không tha ”) thì đều mang tính khẳng định hoặc hô khẩu hiệu, và như thế phải là lời quát nạt của người bố (ông Thứ) chứ không phải là tâm sự của người con (cậu ấm Đôn).
    Câu thơ thứ năm có “… chỉ quen… ” là: lúc nào cũng quen thói như thế,- “… chỉ quen nhời lếu láo ” nghĩa là thường xuyên lếu láo, nó đã thành thói quen rồi ( các cụ xưa chửi con cháu đại ý: Mày chỉ quen nói lếu, nói láo, ráo hoảnh ).
    Chữ: “nhời ” giống như chữ lời ngày nay, nhưng nó mang nghĩa tình thấm đậm (“nhời ăn, tiếng nói ” hay: “chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử nhời ”)
    Song, điều đáng nói hơn cả ở câu thơ này là- người xưa dùng chữ rất ý tứ “tiền hậu như nhất”: ở đây đầu câu dùng chữ “mép” thì tiếp sau phải là chữ “nhời”, vì đều từ miệng cả; chứ không “tiền hậu bất nhất”, đầu đuôi khủng khoẳng như hầu hết các bản viết ngày nay, đó là: đầu thì viết chữ “mép” (ở mồm) sau lại viết chữ “tuồng” (cái trò)- “… tuồng lếu láo”, hay “phường” (số đông)- “… phường lếu láo”.
    Ở câu thơ thứ sáu có: “… chẳng khỏi” là không bao giờ khỏi; “… vết năm ba” là năm ba vết roi- “… chẳng khỏi vết năm ba” nghĩa là: liên tục bị mắc tội, liên tục bị đòn roi, không lúc nào là không có năm ba vết roi trên lưng.
    Chữ “chẳng” ở đây không những không coi là: “… trùng lặp với chữ “chẳng” ở đầu câu 1…” như Chử Văn Long đã nêu, mà nó lại là cách chơi chữ rất tài tình, vì: cùng một chữ “chẳng” thế mà lại thể hiện hai ý nghĩa đối lập nhau; một cách ngầm so sánh làm nổi bật hai điều khác nhau đó: một là danh giá cao sang của giòng họ Lê, hai là sự chừng phạt tội lỗi “liên chi hồ điệp” một đứa con hư hỏng làm “bại hoại gia phong”.
    (Thử ngẫm_ Dù rất cố chấp khi đánh giá thơ Kiều, đã nhiều chỗ ông phản cảm không phù hợp với mục đích rất sâu xa, chí lý về “tâm lý xã hội” của Nguyễn Du, như chữ “công” trong câu thơ:
    “Ngẫm mình công ít tội nhiều”, hay
    chữ: “vùi nông” trong câu thơ:
    “Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”
    vv và vv
    song ở đoạn thơ có hai chữ “người”:
    “Người mà đến thế thì thôi
    Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
    Người đâu gặp gỡ làm chi
    Trăm năm biết có duyên gì hay không”
    thế mà thi sĩ tài hoa Tản Đà, đã phải khen:
    “Mấy câu đây thật tài tình! Dùng hai chữ “người” mà trên nói được Đạm Tiên, dưới nói được ra Kim Trọng…”

    (Theo tôi thì Nguyễn Du còn tài tình hơn cả Tản Đà nêu, đó là ông đã cho Thúy Kiều mượn Đạm Tiên, Kim Trọng để nói về nỗi lòng mình)
    So sánh như thế để thấy chữ “chẳng” ở hai câu thơ thứ nhất và thứ sáu bài thơ đó hay biết chừng nào?
    Lại nữa, nếu viết là: “… cam chịu” (“lằn lưng cam chịu…”) thì vừa gượng gạo lại vừa không đúng khẩu khí của người quân tử xưa…, như Lê Quý Đôn , bởi vì: người xưa coi “cam chịu ” chỉ dành riêng cho “đàn bà” (“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”_ thơ “Bánh trôi nước ” của Hồ Xuân Hương).
    Và ở cuối câu này mà viết là: “… roi cha” là bị bố đánh, hay “… roi tra” là đánh để tra khảo, thì hóa ra nói “toạc móng heo” như thế, chữ nghĩa sẽ tầm thường, không xứng đáng với tài trí của một “thần đồng”, hoặc nữa viết là “… roi da” thì thời đó chưa có roi da, chỉ có “trượng” thôi! (Ngay đến sau này chưa kể đến nhà nho, mà bất kì ai cũng không “đánh con như quân thù”)_ nỡ dùng đến roi da. Nhất là các cụ nhà nho xưa dù quan niệm: “Già đòn non nhẽ, đánh khỏe phải kinh”, nhưng các cụ rất tinh vi, chỉ chọn duy nhất roi mây, cuộn tròn một đoạn dễ cầm tay và chủ yếu là treo: trên tường hoặc đung đưa ở cửa buồng, để dậm dọa con cháu. Roi mây đánh vào lưng, vào mông thì vết hằn nổi cộm, khổ nhất là khi trời nóng bức, mồ hôi ra, ngứa ngáy sờ tay vào gãi thấy rõ mồn một vệt to như con lươn (ngày xưa các cụ thường đe con cháu đại để:… Muốn ăn lươn đấy!) vừa đau, vừa xót_ nhớ đời. Hơn nữa roi mây rất mềm, không sợ gãy do nóng dận đánh quá tay_ Thâm nho mà lại!
    Tôi phải kể lể tường tận “dài dòng văn tự” điều này ngoài mục đích minh chứng không phải là “roi da” ở cuối câu thơ đó, mà chính vì ngày nay trừ tôi ra không ai dùng roi mây nên không biết sự tình).
    Ở câu thơ thứ bẩy Trần Nhuận Minh nêu là: “… sau khi bị cha đánh đòn… mà dám nói thẳng với bố rằng: “Từ nay CỤ TỔ CỦA BỐ xin siêng học ”” thì có nên xem xét lại không?_ vì đây là bài thơ: tổng luận tự bạch chứ không phải sự thể Lê Quý Đôn phản ứng ngay “… sau khi bị cha đánh đòn… ”.
    Hơn nữa, nếu hiểu Trâu Lỗ ám chỉ Khổng tử và Mạnh tử, thì đã làm đứt đoạn của mạch bài thơ “toàn rắn”, mất hẳn sự tinh túy tuyệt vời của bài thơ này… và Trần Nhuận Minh còn cho rằng:
    “Ấy là chưa nói tới việc tôi chưa bao giờ nghe nói có loài rắn tên là hổ trâu cả”_ thì hoàn toàn khác với thực tế.
    Tôi xin khảng định một trăm phần trăm là có rắn hổ trâu vì tai nghe, mắt thấy, tay sờ, miệng ăn (rắn nặng 3.5kg).
    Hổ trâu là loại rắn to hiền lành trong các loài rắn, có con nặng tới 6..,7 ký lô, nên nó mang tên đó (ngày nay các cầu thủ bóng đá to khỏe thường được kèm theo tên mình với tên “trâu”) _Tìm ở Google có cả các bài “… Kỹ thuật nuôi rắn hổ trâu”.
    Người ta chỉ bắt được rắn hổ trâu ở ngay trong lỗ, chứ ít người gặp nó ở ngoài như các loại rắn khác, nên nhà bác học của chúng ta đã sâu sát với thiên nhiên một cách tinh tường ngay từ tuổi thơ ấu và đã gọi hổ trâu là trâu lỗ rất đúng thực tế. Chẳng trách, sau này người đời ca ngợi “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn”. Có lẽ:
    Nhận là trâu lỗ Lê Quý Đôn tự biện minh cho mình rằng: dù là “thần đồng” đi nữa mà như rắn hổ trâu lúc nào cũng chỉ nằm trong lỗ thì vẫn cứ dại dột (thực tế lúc đó ông đang ở tuổi thơ ngây) không biết sáng tối, hay dở. Rắn hổ trâu phải ra khỏi lỗ mới thấy được ánh sáng huy hoàng của mặt trời, mới tinh khôn được; Lê Quý Đôn phải thức tỉnh, sáng suốt siêng năng học hành mới thành tài được, (“Từ nay… ”_ là thời điểm tuyên thệ của ông).
    Một lần nữa xin hết sức lưu tâm rằng: Đây là bài thơ tự bạch tổng luận_ rất tài tình…, vì không chỉ có đầu óc tư duy xuất chúng: lựa chọn và xếp đặt để tất cả tám câu thơ đều có loài rắn cho phù hợp với ý tứ bài thơ, nhưng sự thú vị, chí lý, nghiêm túc lại là ám chỉ đúng tính cách, sự thể đương thời của tác giả với thân thế cao sang, và đặc biệt là sự cảm thông sâu sắc ở một đứa trẻ_ đến nỗi lòng xót xa, cay đắng của cha mẹ mình vì có đứa con “bất trị” đó, nhất là trong một gia đình giòng dõi khoa bảng, gia giáo, danh giá; đồng thời bộc lộ quyết sách tự cải, khí phách vươn lên từ một tâm hồn ngây thơ với ý chí, khẩu khí phi thường…
    Khởi nguồn bài thơ từ câu chuyện, mà đại ý người xưa kể rằng:
    Thuở nhỏ Lê Quý Đôn nổi tiếng là “thần đồng”, đọc đâu nhớ đấy, dù sách rất dầy, ông chỉ đọc qua một lần là “thuộc lòng như cháo”, gấp sách lại, nhớ từng chữ, từng dòng, từng trang như in; Nhưng ông lại rất ham chơi bời lêu lổng “túm năm, tụm ba” với bạn bè để nghịch ngợm; đã không chịu học hành, lại tinh nghịch, bướng bỉnh (người xưa gọi là: rắn đầu, rắn mặt, cứng cổ…). Khuyên bảo, roi vọt liên tục, hết cách vẫn không thay đổi, cha mẹ ông rất buồn phiền, đau lòng.
    Một hôm bạn bố (tiến sĩ đồng khoa Vũ Công Trấn) đang chơi nhà mách tội thất lễ của Đôn, ông Thứ nạt nộ con định đánh, ông Trấn xin tha, nể lời bạn, ông Thứ bắt con ra tạ tội bạn mình, tạ ơn bác xin tha đánh.
    Bằng nhan đề: “Rắn đầu biếng học”, nhà bác học tương lai đã ứng khẩu xuất thần ngay, ông đọc vanh vách một mạch bài thơ này, và từ đấy, ông đã giữ đúng lời hứa chuyên tâm học hành, rạng rỡ, vang danh Tổ Tông_ đó là ý nguyện lớn nhất của người xưa.
    Như Trần Nhuận Minh nêu: “Đây là bài thơ từ lâu đã được truyền tụng trong dân gian, tương truyền là của Lê Quý Đôn, có trong “Giai thoại văn học Việt Nam”và nhiều sách khác. Nhưng trong tất cả các sách đã xuất bản gồm những trang viết chính thức của nhà bác học Lê Quý Đôn, đều không có bài này” và ông cho rằng: “… đây là bài thơ đời sau làm… ”_ theo tôi Ngài Bảng Đôn không ghi lại bài thơ này là điều dễ hiểu, bởi vì các quan lớn nho học xưa, khác với võ quan, là không bao giờ muốn nhắc đến cái gọi là “chuyện trẻ con”, “đồ trẻ con”, “trò trẻ con”, vv.
    Nhất là thời thơ ấu khả ố; hoàn toàn trái ngược với ý nguyện cần nêu gương sáng của dân chúng trong dân gian.
    Như vậy, với hoàn cảnh thực tế ra đời của bài thơ này và hơn nữa là thành quả hiển vinh của Bảng Đôn là minh chứng, rất khớp với mọi tình tiết và ý tứ bài thơ đó, mà ngay từ thời xa xưa ấy, chính Tổ Tiên, rồi đến ông cha chúng ta đã công nhận “Rắn đầu biếng học” là bài thơ của Lê Quý Đôn, thậm chí đến ngày nay, ngay trong sách giáo khoa cũng ghi rõ danh tính tác giả bài thơ này không ai khác, nó đã thành nếp sống hàng gần ba thế kỉ có ít đâu, nên cho dù có hay không có văn bản xác minh thì đó cũng hiển nhiên, mặc định rồi. Và nhất là đây lại là bài học rất đặc biệt, lớn nhất, vô song về ý thức “cải tà quy chính” vươn lên vượt bậc của trẻ thơ, một tấm gương kì vĩ đáng để muôn đời con cháu noi theo thì có cần thiết phải giả định về tác giả bài thơ này hay chăng?
    Xin kính nhường quyền phán xét của bạn đọc!
    Mỹ Tân Trung tuần 5-2013 Nguyễn Văn vị Nhiên Hương
    DĐ: 098 6761 481

  10. Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương 27/07/2013 lúc 11:04 Sáng #

    Suy ngẫm TRUYỆN KIỀU
    Bài 15
    Sự sâu xa, chí lý của Nguyễn Du với từ “vùi nông”
    trong câu thơ Kiều:
    “Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”
    Nhân đọc “Tản Đà với công trình biên khảo Truyện Kiều VHNA” trên mạng*, có đoạn ông viết :“ Hai chữ “bụi hồng” đây chỉ là lời văn lịch sự nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản đề là: “vùi nông” thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý”.
    Với nhận xét đó của thi sĩ tài hoa Tản Đà, ta càng thấy: chữ và nghĩa của Nguyễn Du trong thơ Kiều thâm thúy biết chừng nào!
    … Phải thừa nhận rằng Nguyễn Du rất hay sử dụng mỹ từ, nhất là “bụi hồng” nhưng ông dùng rất đúng lúc, đúng chỗ, đủ ý, hợp lẽ; còn ở câu thơ này thì không phải thế!-không phải như ý Tản Đà nêu.
    Để hiểu hết lẽ: về chủ định của Nguyễn Du ở từ “vùi nông” trong câu thơ này, theo tôi nên xét về cả hai phương diện:
    “tâm lý xã hội”, và:“hiện thực”-
    -Về tâm lý xã hội: Mở đầu đoạn thơ đó Nguyễn Du viết rất ý tứ:
    “Có người khách ở viễn phương
    Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi”
    Như thế, đây là người khách “làng chơi” ở xa, chỉ nghe tiếng Đạm Tiên mà tìm đến chứ chưa hề quen biết, chưa có quan hệ gì với nàng, nên không thể coi kiểu “vung tay” ấy là “trung hậu” được.
    Cũng vì từ xa đến, mà đã biết tiếng một người con gái lầu xanh đó rất tài sắc, cao giá, nên anh ta phải đem nhiều tiền – đã sẵn sàng bỏ ra:
    “Sắm sanh nếp tử xe châu”
    và với hoàn cảnh “đơn thương độc mã”, nơi đất khách quê người muốn tỏ ra là con người “ăn chơi hào sảng” – anh ta chỉ lấy tiền ra mà dẫy thì đương nhiên phải thuê mướn toàn bộ công việc mai táng cho Đạm Tiên; duy cái máu “tay chơi”, “anh hùng rơm” thì hắn chỉ mải mê:
    “Khóc than khôn xiết sự tình”
    chứ có để ý gì đến việc “đào sâu chôn chặt”, chẳng qua chỉ là luyến tiếc một giai nhân tuyệt đỉnh mà có lẽ hắn cho rằng: nếu ta đến sớm thì nàng sẽ không tới nông nỗi này – cũng có lẽ ẩn ý của “sự tình” trong câu thơ trên mà Nguyễn Du đã nêu là như thế đấy! Không những thế ông còn cẩn trọng từng chữ (có trước, có sau), nên đã “chua” thêm cái điều ai oán là:
    “…mặc dầu cỏ hoa”
    chứ sau này anh ta có trở lại thăm viếng mả Đạm Tiên nữa đâu!
    Sử sự đó của “người khách viễn phương” đúng như cách nói của nhà nho xưa đại ý: cái anh chàng đi chơi gái, chứ Đạm Tiên có phải vợ hắn đâu mà gắn bó nghĩa tình – và dù không trực tiếp làm thì cũng phải nhắc nhở người thuê mướn không làm cho qua chuyện, do đó chẳng “vùi nông” là gì?
    Xin mở ngoặc thêm rằng: không chỉ ở đây mà rất nhiều đoạn thơ khác trong Truyện Kiều (tôi sẽ trình bày lần lượt sau), Nguyễn Du đã tỏ rõ là bậc thầy về “tâm lý xã hội” rất sâu xa – ông chỉ cần dùng một “chữ” thôi đã thể hiện rất nhiều ý tứ, nhất là ở lĩnh vực này. Trong câu thơ đó ông không dùng chữ “chôn” – chôn nông, bởi như thế vẫn còn là tử tế mà ông đã dùng chữ “vùi” – vùi nông là vùi dập qua quýt, có lẽ ông muốn nêu nên ba điều:
    Một là: tư cách hời hợt của anh chàng đi chơi gái,
    Hai là: việc vùi lấp cẩu thả của người làm thuê,
    Song đáng kể hơn cả là Điều thứ ba: ông đã nhân đạo cảnh báo về hậu họa tang thương cho những cô gái làm nghề “bán hoa” là ngay lúc sống thì làm “đồ chơi” cho mọi người:
    “Sống làm vợ khắp người ta”
    nhưng đau xót hơn cả là khi chết không những đã phải chịu cô đơn, cô quả (như lời người xưa nguyền rủa):
    “Hại thay thác xuống làm ma không chồng”
    thậm chí lại còn không được “mồ yên mả đẹp” như những người bình thường khác mà phải chịu:
    “Sè sè nấm đất bên đường”
    để mỗi buổi thanh minh người ta lại dẫm đạp lên đến nỗi:
    “Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
    -Về hiện thực: Lúc chị em Thúy Kiều đến mả Đạm Tiên thì đã:
    “Trải bao thỏ lặn ác tà
    Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm”
    Như thế, hàng năm vào dịp thanh minh đã không có người đắp điếm thêm, mà ngôi mộ lại nằm ở bên đường với thời gian đã quá dài, nắng mưa bào mòn đến nỗi chỉ còn:
    “Sè sè nấm đất bên đường”
    nhìn thấy hiện thực rõ mồn một như vậy thì chẳng là “vùi nông” hay sao?
    Với hai phương diện nêu trên, theo tôi ở câu thơ này không có từ nào thay thế được từ “vùi nông” sâu xa, chí lý của Nguyễn Du.
    Chẳng trách, Tự Đức là ông vua nổi tiếng hay chữ đã phải thán phục thốt lên đại ý: Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể sửa được dù chỉ là một chữ.
    Càng nghe càng thấy rõ ràng,
    Nguyễn Du hơn hẳn trong làng thơ văn

    Hồng Phong, Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định.
    Đầu tháng 7 năm 2013
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
    DĐ: 0986761481.
    TV: – * trang mạng: vonga1. wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/
    – Tôi xin trình bày các bài viết sau tương tự như trên – từ nhận xét của Tản Đà ở các câu thơ thứ: 287, 288 – 317,318 – 774 .v.v. trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

  11. Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương 30/08/2013 lúc 8:16 Sáng #

    TRUYỆN KIỀU – Suy ngẫm
    Bài thứ 16
    Có phải ý Nguyễn Du như nhận xét của Tản Đà
    hay không? – trong câu thơ Kiều:

    “Ngày xuân con én đưa thoi”
    Ở trang mạng: http://vonga1.wordpress.com/2012/03/24/tản-da-với-cong-trinh-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/ có bài viết đã nêu ý của thi sĩ Tản Đà nhận xét về câu thơ trên, xin trích nguyên văn như sau:
    “Câu này muốn nói ngày xuân đi nhanh thấm thoắt mà nhân cảnh xuân có những con én bay đi bay lại, cho nên đặt như đây là lời văn tả cảnh. Có bản giảng vì cái thoi dệt cửi làm như hình con chim én, nghĩ đó thực sai”.
    … Như bài số 1 – Suy ngẫm Truyện Kiều, tôi có viết đại ý là: đọc thơ Kiều nếu chỉ hiểu theo kiểu một với một là hai, thì chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”; vì hầu hết mỗi chữ, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đều có rất nhiều ý tứ kể cả về nội dung lẫn nghệ thuật; và các câu thơ gần, xa nhau thường có mối tương tác ý nghĩa cho nhau ( Tôi sẽ xin trình bày điều này lần lượt từ câu thơ đầu (c1), đến câu thơ cuối (c3254) trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ). Vì thế ở câu thơ này có lẽ nên hiểu ít nhất hai trường hợp khác nhau:
    – Một là như nhận xét của Tản Đà bởi có chim én xuất hiện vào mùa xuân, chao đi chao lại rất nhanh mà Nguyễn Du ví ngày xuân trôi qua mau chóng như én bay…
    – Song còn phải nghĩ đến hình tượng thứ hai như câu ca dao:
    “Thời gian thấm thoắt thoi đưa
    Nó đi đi mãi có chờ ai đâu”
    (Nguyễn Du thường mượn ý tục ngữ, ca dao đưa vào thơ Kiều)
    Bởi trong thực tế thời xưa người ta đã khôn khéo làm chiếc thoi dệt vải nhọn cả hai đầu trông giông giống con chim én để dễ luồn giữa hai mặt vải trên khung dệt mà không bị vướng mắc, tên của nó được quen gọi là con thoi hay con én.
    Khi dệt vải con thoi lao nhanh thoăn thoắt ở khung cửi, đây cũng là một ý nữa của Nguyễn Du nói lên sự trôi đi nhanh chóng của ngày xuân như con thoi vun vút ( câu thơ có: con én và đưa thoi )
    Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đấy mà không xét đến câu thơ tiếp sau thì vẫn là khiếm khuyết vì Nguyễn Du còn cụ thể hóa cái tốc độ nhanh chóng trôi qua của mùa xuân ở thời điểm đó là:
    “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
    (ngày xuân đi nhanh quá, nhanh chóng đến nỗi cả mùa xuân có chín chục ngày thì đã qua hơn sáu mươi ngày rồi).

    Tuy nhiên, điều này chỉ là hình tượng hiện thực của ngày xuân, mùa xuân trôi đi nhanh chóng còn tâm điểm chính mà Nguyễn Du muốn sắp xếp cái ý đồ tiếp theo là khung cảnh
    “Dập dìu tài tử giai nhân
    Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
    và với một sự kiện gặp gỡ thơ mộng của Kim Kiều cũng trôi qua nhanh chóng như ngày xuân ấy, nó lại là khởi nguồn cho kiếp trầm luân nhơ nhuốc của một thiếu nữ tài sắc, thảo hiền ở một gia đình nề nếp. Và dù rằng sau này Kiều Kim cũng có những giây phút mê say vui thú tâm tình vụng trộm, nhưng so với mười lăm năm chuân chiên của nàng thì quá ít, nó trôi qua quá nhanh chóng như mùa xuân tươi đẹp vậy.
    Chỉ bằng một câu thơ thôi Nguyễn Du đã nêu bật cái chiết lý muôn thuở là niêm vui dù có muốn níu kéo vẫn trôi đi mau chóng quá ( còn nỗi buồn dù muốn xua tan cũng cứ kéo dài ). Mùa xuân tươi đẹp nhất trong năm thì vun vút trôi qua. ( chỉ có mùa đông giá lạnh là kéo dài lê thê )
    Đặc tài quan sát, suy tư mọi sự để chọn chữ, đúc nghĩa rất chuẩn mực, đa dạng, thâm thúy của Nguyễn Du là thế đấy!
    Như vậy:
    Cả con chim én hiểu theo ý Tản Đà,
    Cả cái thoi dệt cửi xưa hiểu theo câu ca dao đó,
    Cả câu thơ tiếp sau,
    Cả ngày hội thanh minh vui xuân ấy,
    Và ngay cả ẩn ý nói lên tình xuân tươi đẹp phút chốc của Thúy Kiều …
    Tất cả những điều đó đều trôi đi nhanh chóng quá cùng với mùa xuân, có lẽ đó mới đúng ý của Nguyễn Du nêu trong câu thơ:
    “Ngày xuân con én đưa thoi”

    Chỉ nêu ngày đầu tháng ba
    Nguyễn Du dùng chữ văn hoa lạ thường.
    Hồng Phong, Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định
    Đầu tháng 8 – 2013 Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương

  12. Nguyễn Văn Vị Nhiên 21/11/2013 lúc 8:12 Chiều #

    Truyện Kiều- Suy ngẫm
    Bài thứ17
    Kim Trọng có phải là “bạn học thân” với Vương Quan
    như ý của Tản Đà không?

    Nhân đọc trên trang mạng: vonga1.wordpress.com/1012/03/24/tản-da-với-cong-tring-bien-khảo-truyện-kiều-vhna/.
    Ở hai câu thơ Kiều:
    “ Nhận từ quán khách lâu la
    Tuần trăng thấm thoát nay đà thân hai ”.
    Có nêu nguyên văn Tản Đà nhận xét:
    “ Nghĩa là gần hai tháng – Nhân câu này ngẫm ra mới thấy một tình sự đáng buồn cười. Kim Trọng với Vương Quan là chỗ bạn học thân mà Trọng đến trọ sau nhà Quan đã gần hai tháng, hai người không hề sang chơi nhau, mà Kim đã để ý ngấp nghé một sự khác. Chỗ đó nghĩ sao cho hợp tình?”.
    Xin trình bày quan điểm riêng của mình để bạn đọc tham khảo thêm:
    Qua xem nhiều quyển thơ Kiều và với suy xét tự thân, trước tiên chúng tôi thấy chữ “Nhẫn” hợp lẽ hơn chữ “Nhận”, nên là:
    “Nhẫn từ quán khách lân la”
    Còn nhận xét của Tản Đà về chữ và nghĩa ở hai câu thơ này thì liệu có sai lệch với ý chuẩn mực của Nguyễn Du chăng?
    … Tôi không nghĩ rằng Tản Đà lại coi “đồng thân” là “bạn… thân” vì ai cũng hiểu “đồng thân” là cùng trang lứa, còn đồng môn mới là “bạn học”. Trong Truyện Kiều này không hề có câu thơ nào nói Vương Quan và Kim Trọng là “bạn học thân” cả mà chỉ chứng tỏ rằng:
    “Với Vương Quan trước vốn là đồng thân”. (c154)
    Hơn thế nữa, trước đó tám câu thơ Nguyễn Du đã nêu rất rõ ràng là Vương Quan chỉ “quen mặt” Kim Trọng chứ hoàn toàn không nói gì “là chỗ bạn học” kể cả thân, sơ:
    “Chàng Vương quen mặt ra chào”. (c145)
    Như thế, nếu chỉ riêng xét về văn từ thơ Kiều, thì liệu “tình sự đáng buồn cười” đó chúng ta nghĩ sao đây?-
    Vì quả thật chữ nghĩa của Nguyễn Du rất “hợp tình” rồi…
    Để suy hết lẽ: nếu cứ coi như ý Tản Đà rằng Kim Trọng và Vương Quan “là chỗ bạn học thân” đi nữa, thì thử hỏi những chàng trai thời đó có dám “tiết lộ” bóng dáng mình với em cô gái mà anh ta dụng tâm “tán tỉnh” không? – nhất là lại với em trai, cái cảnh ngộ đồng giới thì sẽ biết “thóp” mình ngay, rất khó sử. .
    … Tuy đã khoảng hai tháng trời, dù đã ở “… chốn ấy chữ bài” (c281) mà chàng Kim vẫn đành “phục kích” chờ thời cơ, cứ “len lét như rắn mùng năm”, ngay cả cần theo dõi bóng dáng nàng Kiều cũng không dám mở toang cửa sổ, mà chỉ đành cam chiụ:
    “Song hồ nửa khép cánh mây” (c283)
    và lúc nào cũng chỉ ẩn nấp, dòm ngó vụng trộm, không để cho ai biết, cứ kiên nhẫn:
    “Tường đông nghé mắt ngày ngày hằng trông”- (c284)
    có thế thôi!- điều này chính Tản Đà cũng phải thừa nhận, nên vô tình tự phản bác mình: “… mà Kim đã để ý ngấp nghé một sự khác…” – chính cái: “… ngấp nghé một sự khác” đó!- là sự biểu lộ sâu sắc về tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
    Như vậy, Nguyễn Du đã lột tả đúng tâm trạng của chàng trai Kim Trọng với những sử sự bí ẩn, ngay cả phải dấu mình không dám “tiết lộ” gặp Vương Quan; ông đã nêu bật tâm lý xã hội đương thời, điều dè dặt của người con trai ngày xưa trước ái tình.
    Song, điều đặc biệt hơn cả là Nguyễn Du đã rất tài tình dùng câu chữ mà dù ai muốn hiểu cách này hay cách khác: văn lý, hoặc nghĩa lý, gì gì đi nữa…, thì câu thơ vẫn cứ đúng lý, hợp lẽ, thấu tình đạt ý… chứ không chỉ hào hoa, tình tứ thôi đâu.-Thế mới biết:
    Thơ Kiều, không ngẫm kỹ càng,
    “Buồn cười” “tình sự” rõ ràng là ta.
    Trung tuần tháng 11/2013
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương

  13. Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương 17/12/2013 lúc 4:35 Chiều #

    TRUYỆN KIỀU: Suy ngẫm Nguồn NƯỚC ở đâu? –
    Bài viết thứ 6 để thấy được ngấn vàng do ánh trăng chiếu xuống
    trong câu thơ Kiều:

    “Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”

    Thoạt đọc hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
    “Gương nga chênh chếch dòm song
    Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
    ta cứ tưởng rằng đây đơn thuần chỉ là những câu thơ tả cảnh mĩ miều trong đêm trăng sáng như gương; Và chỉ cần hiểu như thế thôi cũng đã lý thú lắm rồi. Vậy mà, còn hơn cả sự hiểu đó rất nhiều nếu ngẫm nghĩ kỹ mới thấy ẩn trong nó còn có những điều ý nhị, hữu tình và kể cả trớ trêu.
    … Bằng một chữ “dòm” nhân hóa mặt trăng, Nguyễn Du đã mách bảo:
    Tâm lý của một cô gái khuê các thời xưa là: dù chẳng có lỗi lầm gì, duy chỉ “phải lòng mặt” một chàng trai, thế mà cũng e sợ, ngượng ngùng chột dạ không phải với người khác, mà ngay cả với hình tượng vô tri vô giác là “Gương nga”- vì nàng Kiều cứ nghĩ rằng: ánh trăng kia đã chủ ý ghé nghiêng chênh chếch dòm ngó soi mói qua song cửa sổ vào phòng mình đâu có phải là vô tình mà nó đã tường tận từ đáy lòng trắc ẩn, tương tư của nàng ngay sau buổi chiều gặp gỡ chàng Kim. Điều gọi là “có tật giật mình” kiểu ấy rất thông thường ở các cô gái thời xưa, thì ngày nay lại rất buồn cười, ngộ nghĩnh.
    Không những thế, vẫn cùng một ánh trăng chiếu sáng như vậy, ở câu thơ liền sau đấy, Nguyễn Du lại lột tả sâu xa hơn: đó là nỗi lòng cô đơn, vô vọng của Thúy Kiều trước cảnh vật vắng vẻ trong đêm trăng, nhưng chúng đều có bầu bạn, một sự so sánh độc đáo giữa cảnh vật với con người, bởi vì:
    Ánh trăng màu vàng chiếu xuống mặt nước phải chăng lúc đó có gió nhè nhẹ thổi làm gợn sóng, nên đã nhìn thấy ngấn nước màu vàng:
    “Vàng gieo ngấn nước…”
    như thế thì nước đã có bạn là gió và ánh trăng vàng.
    Lại cũng ánh trăng ấy chiếu xuống cây, thì nàng Kiều đã nhìn thấy cây in hình trên mặt sân, mà Nguyễn Du đã hình tượng rất gọn ghẽ, tình tứ là:
    “…cây lồng bóng sân”
    và như thế thì sân cũng có bạn là cây.
    Duy chỉ có một mình Thúy Kiều phải cô đơn trong đêm trăng sáng; dù rất hữu tình, nhưng khi: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
    … Xin trở lại nhan đề đã nêu ở câu thơ trên:
    “Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”
    thì nguồn nước này có từ đâu?- Sự thể xin trình bày:
    Thời xưa, các quan văn triều đình là người học rộng, đạo sâu; hoặc nữa là những nhà nho mộng mơ, thâm thúy, nên các Ngài thường xây dựng khuôn viên ăn ở, thưởng ngoạn rất thơ mộng theo thuyết Phong Thủy phương Đông là phải có Hồ hoặc Ao nước ở khu vực trước nhà; có vườn cây ăn quả to, nhỏ bao bọc khuôn viên sâu rộng, tách bạch:
    “Thâm nghiêm kín cổng cao tường”
    Cảnh vật này ngày nay còn di tích ở một số Đền, Chùa…
    Như vậy, nguồn nước thể hiện trong câu thơ trên là ở Hồ hoặc Ao trước cửa nhà Thúy Kiều.
    Chúng tôi muốn nêu lên cảnh trí này * vì nếu chúng ta không biết đến nó thì sẽ rất thiệt thòi ở chỗ không cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa tả cảnh ngụ tình rất thâm thúy, sâu xa của Nguyễn Du, bởi khi đứng trước một không gian tĩnh mịch, cây cối, hoa cỏ um tùm sâu thẳm đó, con người rất nhỏ nhoi, hơn nữa trong đêm khuya thanh vắng, trăng trong; một thân một mình phận gái càng khiến nỗi lòng nàng Kiều thêm rạo rực, xao xuyến, đơn côi- Đó mới là dụng ý chính ở hai câu thơ này của Nguyễn Du.
    Quả thật:
    May thay đọc mấy câu Kiều,
    Người xưa, cảnh cổ là điều mới hay…

    Mỹ Tân. Mỹ Lộc. Nam Định
    Cuối tháng 7- 2009
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
    VT: 0968761481 Vina:01278935092

    TÁI VIẾT:
    -Bài viết chỉ mang tính chất nêu tiêu đề để cùng bàn luận. Kính mong chư quý vị chỉ giáo, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn rất nhiều…
    -* cảnh trí này: thời xưa thì ai cũng lĩnh hộ được ý thơ của Nguyễn Du; nhưng ngày nay cảnh chí này ít có; với văn học cổ, nếu cứ máy móc dựa vào văn cảnh thì đâu thấy được ý nghĩa sâu xa của tác giả.

  14. Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương 20/01/2014 lúc 3:39 Chiều #

    Suy ngẫm TRUYỆN KIỀU
    Bài viết thứ 18 Có lúc nào đất cao, trời thấp không?

    Có thắc mắc đại ý rằng:
    Bao giờ Đất chẳng thấp Trời chẳng cao, thế mà ở câu thơ thứ 1817 trong Truyện Kiều, có lẽ Nguyễn Du viết chưa phải:
    “Bây giờ đất thấp trời cao”
    Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu đơn thuần với một ý về sự thấp, cao giữa Thúy Kiều với Thúc sinh ở thời điểm “bây giờ” đó, thì chắc nhiều người luận ra.
    Vậy nên hiểu sao đây cho đầy đủ, đúng ý định của Nguyễn Du trong câu thơ này?
    … Riêng xét về ngôn từ, nếu ở chúng ta sẽ than là:
    Hỡi ôi! Đất thấp trời cao
    thì có lẽ không ai thắc mắc, song như thế sẽ không phải là Nguyễn Du nữa rồi; vì ngoài mục đích nêu bật cả về nội dung lẫn nghệ thuật tu từ, ông còn thể hiện, nhưng rất kín đáo về một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều mà ít ai để tâm đến; xin bàn luận điều này ở phần sau; còn bây giờ hãy tìm hiểu cái ý nghĩa đơn thuần như đề cập ở trên đã:
    Là con hầu gái, hiển nhiên Thúy Kiều so với Hoạn thư như: “đất thấp trời cao” – ý này không cần bàn đến.
    Song, trong hoàn cảnh Thúc, Kiều được gặp nhau éo le, bất đắc dĩ ở Vô tích, do Hoạn thư sắp đặt, vào cái lúc “Bây giờ…” ấy, thì sự chênh lệch giữa cô hầu thấp hèn lè tè như dưới mặt đất, so với ông chủ cao vời vợi như trên trời; chứ không phải bằng vai phải lứa, nghĩa vợ tình chồng tâm đắc; mến đức, nể tài; tôn quí lẫn nhau như ở Lâm Truy thì hẳn là “đất thấp trời cao”.
    Điều “bây giờ” này chúng ta cũng dễ hiểu được vì Nguyễn Du đã chỉ ra rằng:
    “Rõ ràng thật lứa đôi ta
    Làm cho con ở chúa nhà đôi nơi”
    Sự cách biệt giữa con ở với chủ nhà thời xưa không chỉ thể hiện ở sự thấp cao tột cùng về danh giá, giữa đê hèn và cao quí; mà chủ nhà còn có quyền hành hạ con hầu đủ mọi cách, kể cả đánh đập đến chết cũng “vô tội vạ”.
    Để lồng vào thơ mình giàu biểu cảm, thấm đậm lòng người, Nguyễn Du đã khéo léo dùng lời ca thán trong dân gian xưa, khi dân đen bị oan ức, đại ý là: Phen này đất thì thấp, trời thì cao, dẫu có kêu oan cũng không thấu đến ông trời ( cũng có ý nữa là so sánh giữa mình với “đối tác” )
    Khéo là:
    Mượn lời ca thán dân gian
    Nguyễn Du bày tỏ nỗi oan Thúc, Kiều…
    -Sao lại nói là “nỗi oan” được chứ, khi mà Thúc sinh đã dấu vợ cả để lấy vợ hai và Thúy Kiều biết Thúc sinh có vợ rồi mà vẫn chung sống?
    -Đây là khởi nguồn cho cái ý nghĩa sâu xa hơn cả ở điều gọi là “Bây giờ…” đó, với một dụng ý bí ẩn của Nguyễn Du.
    Nếu theo Luật Hôn nhân và gia đình ngày nay của chúng ta thì Thúc, Kiều đã phạm pháp; song ở thời phong kiến xưa thì hoàn toàn khác hẳn, vì : “làm trai năm thê bảy thiếp…”. Hơn nữa Thúc sinh và Thúy Kiều kết hôn là hoàn toàn hợp pháp, hợp tình, hợp lẽ, xin xét:
    +Về pháp lý: thì đã được quan Phủ ở Lâm Truy công nhận là:
    “Dâu con trong đạo gia đình” (c1463)
    không những thế Hôn lễ còn được tạo dựng với nghi thức công ngay lập tức:
    “Kíp truyền sắm sửa lễ công
    Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruổi sao
    Bày hàng cổ súy xôn xao
    Song song đưa tới trướng đào sánh đôi”
    +Về gia pháp: thì cha đẻ của Thúc sinh đã chấp nhận:
    “Thương vì hạnh trọng vì tài (c1469)
    Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba”
    Vì thế, đương nhiên Thúy Kiều chỉ kém Hoạn Thư có một bậc là làm vợ hai Thúc sinh; chứ không phải chênh lệch như trình bày ở phần trên.
    Về phần mình, mặc dù đã lường trước được hậu họa và nỗi ưu sầu lúc chia ly, Thúy Kiều vẫn biết thân biết phận nên không chỉ giục giã Thúc sinh sớm về thăm vợ cả mà còn căn dặn hết lẽ, hết tình là cần thú thật chuyện lấy vợ hai với Hoạn thư:
    “Xin chàng kíp liệu về nhà” (c1491), và:
    “Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi (c1512)
    Hơn điều dấu ngược dấu xuôi
    Lại mang những việc tày trời đến sau
    Thương nhau xin nhớ lời nhau”
    Như thế Thúy Kiều đã không có lỗi, nhưng vì trước đó đã từng nếm đòn đau hà khắc của phận tôi đòi, nên “Bây giờ” nàng đành:
    “Sợ uy dám chẳng nghe lời” (c1821)
    mà còn cam chịu:
    “Bắt khoan bắt nhặt đủ điều (1837)
    Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay”
    đến nỗi nàng sợ hãi bàng hoàng, hoảng loạn tâm trí “tán hoán tê mê”. Tai họa này phải chăng là do Thúc sinh đã quá ngờ nghệch, mà thời xưa gọi là “thấp mưu thua trí đàn bà”, đã không khôn khéo để làm được cái điều mà Hoạn thư cần trước đó, là:
    “Ví bằng thú thật cùng ta
    Có dong kẻ dưới mới là người trên
    Dại chi chẳng giữ lấy nền
    Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình”
    Trước sự hành hạ Kiều của Hoạn thư, chàng Thúc hèn nhát chỉ “câm như miệng hến”:
    “Sợ quen dám hở ra lời” (c1827)
    và nhu nhược đến đến nỗi: “phách lạc hồn siêu”, “như dại như ngây”, “nát ruột tan hồn”, “tan nát cõi lòng”, “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “càng cay đắng lòng”, “nát ruột như bào”.v.v..
    Bằng những từ ngữ “chắp nhặt” trong dân gian, với hàng loạt điệp từ, cụm từ gợi mở hoặc cảm thán, với sáng tạo, sắp đặt trình tự chữ nghĩa xoáy vào, làm tăng dần cung bậc: không chỉ riêng nỗi thống khổ cả thể xác lẫn tâm trí của Thúy Kiều mà còn nêu bật cả sự đau đớn tâm can tột cùng của chàng Thúc đã lộ rõ ngay ở trạng thái tâm lý và dáng dấp, cùng đành cam chịu đòn ghen hiểm độc, quái ác của Hoạn tiểu thư, tới mức:
    “Làm cho nhìn chẳng được nhau (c1549)
    Làm cho đày đọa cơ cầu chẳng lên
    Làm cho trông thấy nhãn tiền
    Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
    “người thăm ván bán thuyền” còn ai khác Thúc sinh, và cùng với hai câu thơ được Nguyễn Du chỉ ra rất rõ ràng, nhưng lại dễ làm nhiều người nhầm tưởng là ám chỉ vào Thúy Kiều, đó là:
    “Bây giờ một vực một trời
    Hết điều khinh trọng hết lời thị phi”
    vào cái lúc “Bây giờ” này, “một vực” đó chính là hoàn cảnh, sự thể của chàng Thúc, còn “một trời” hẳn là vị thế của tiểu thư họ Hoạn.
    Như vậy, không chỉ Thúy Kiều so với Thúc sinh và Hoạn thư là “đất thấp trời cao”, mà ngay cả Thúc sinh so với Hoạn thư cũng tệ hại hơn vì còn như “một vực” với “một trời”, (cả hai đều “há miệng mắc quai” – “Ăn làm sao nói làm sao bây giờ”, và không kêu được tới trời).
    Đó mới là ý nghĩa chính, ý nghĩa sâu xa ở Đại thi hào của chúng ta. Và muốn hiểu được điều này của từ “Bây giờ” ấy, thì không thể chỉ đơn thuần xét riêng câu chữ đó, mà cần nghiền ngẫm với một văn phong cực kỳ độc đáo có một không hai của ông là bằng cách đọc ngược trở lại những 344 câu, từ câu thứ 1463 đến 1470 mới thấy, biết: Hôn nhân của Thúc, Kiều ở thời phong kiến xưa là chính đáng mà vẫn bị cường quyền đàn áp; đọc ngược lại 326 câu thơ, từ câu thứ 1491 đến 1523 để thấy được tâm tư, nguyện vọng đúng đắn của Thúy Kiều; đọc ngược lại 268 câu thơ, từ câu thứ 1549 đến 1552 mới thấy rõ âm mưu thâm độc, nham hiểm của người đàn bà thuộc giai cấp thống trị, cường hào, ác bá thời xưa; và còn phải soi xét trước sau 96 câu thơ từ câu thứ 1804 đến 1897 mới thấy rõ hơn nữa tính cách rất đặc trưng của từng nhân vật: Hoạn thư, Thúc sinh, Thúy Kiều – đáng chê, trách; khen ngợi; căm hờn hay thương xót.
    Sự cẩn trọng “rào trước đón sau”, “nâng lên đặt xuống”, sáng tạo, xây dựng sắp xếp tình tiết, sử dụng chữ nghĩa chí lý, lôgic , không chỉ ở đây mà còn nhiều chỗ trong Truyện Kiều rất bí ẩn, độc đáo, tài tình; không chỉ riêng chúng ta mà ngay cả các văn nhân, trí sĩ, học giả uyên bác xưa nay cũng mỗi người hiểu một lẽ gây tranh cãi hàng thế kỷ vẫn chưa ngã ngũ; ngay cả thi sĩ tài hoa Tản Đà cũng không tránh khỏi những suy xét nên chăng chưa thỏa đáng như ở những câu thơ thứ 8; 39; 78; 288; 317; 457, 458; 773, 774; 2215, 2216; 2259… (Chúng tôi đã và sẽ chứng minh sự tài tình, chí lý của Nguyễn Du như ở các bài viết thứ 13, 15 ,16, 17).
    Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới là thế đấy:
    Thơ thì quả thật tuyệt vời,
    Bố cục, tình tiết – đất trời đảo điên.
    Chữ nghĩa: gấm vốc – như tiên,
    Lúc ẩn, lúc hiện, bút nghiên nào bằng…

    Mỹ Tân, Mỹ Lộc, Nam Định.
    Đầu tháng 1 – 2014
    Nguyễn Văn Vị Nhiên Hương
    DĐ: 0986761481

  15. Nguyễn Trần văn vị Nhiên Hương 08/08/2014 lúc 5:50 Chiều #
    Với quan điểm là tín đồ ngoan đạo của đạo Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du; Kính gửi các đơn vị có ý định tổ chức ngày giỗ lần thứ 195 cụ Nguyễn Tiên Điền (10/08 Giáp Ngọ): tham khảo văn bản này và bỏ bớt những đoạn không phù hợp để có một Tham Luận khoảng 30 phút. Bài viết: Kính thưa các vị đại biểu khách quí, Bổ xung Tham luận Kính thưa Ban tổ chức, ( ………………… Kính thưa các bạn yêu thơ văn, ..……………….. Kính thưa các quí vị… .……………….. ) Xin vô cùng cảm ơn các quí vị đã cho phép chúng tôi được vinh dự trình bày tham luận này. Lời đầu tiên chúng tôi xin kính chúc các quí vị cùng quí quyến: dồi dào sức khỏe, công thành danh toại, Hạnh Phúc, hoan hỉ, tốt đẹp nhất… Kính thưa các quí vị. (1.Lời ca ngợi) Nói đến thiên tài NGUYỄN DU thì không còn lời nào, chữ nào hay hơn nữa, đẹp hơn nữa để ca ngợi ông và Đoạn trường tân thanh. (Xin mở ngoặc rằng: ở đây cho phép chúng tôi gọi đúng tên tác phẩm của tác giả, để tránh nhầm lẫn với tên bản gốc là Kim Vân Kiều truyện, thời xưa gây tranh cãi vô bổ; hay tên gọi trong dân gian thành thói quen là Truyện Kiều (vì khi xưa trình độ dân trí chưa cao, nên ngại “dài dòng văn tự” do chữ Nôm), sẽ không bộc lộ đúng mục đích về nhan đề của tác giả). Kính thưa các quí vị. Mặc dù trong chúng ta hôm nay ai cũng biết những điều ca ngợi Nguyễn Du và Đoạn trường tân thanh, song trong ngày lễ trọng đại này, ngày kính giỗ cụ Nguyễn Tiên Điền, để tỏ lòng thành kính, tri ân công đức của cụ về mọi mặt: giá trị văn chương, ý nghĩa dân tộc và thanh thế tác phẩm trên văn đàn thế giới…; cũng xin coi đây là nén tâm hương thơm thảo tưởng nhớ tiền nhân, kính cẩn dâng lên cụ. Vì thế, xin cho phép tôi được nhắc lại đôi điều tôn vinh cụ Nguyễn Du và Đoạn trường tân thanh của một số bậc danh tài, chức sắc xưa nay cả ở nước ta và trên thế giới: Hồng Sơn thế phả đã so sánh chức vị lớn nhất, văn bằng cao nhất thời xưa với Nguyễn Du và Đoạn trường tân thanh một cách rất tinh tế, độc đáo, chí lý trên đời là: “Đã lừng danh thiên hạ Nguyễn Tiên Điền Nhưng đâu phải tể tướng với trạng nguyên Mà chỉ vị Truyện Kiều âu mới hiếm” Phan Thạch Sơ thì khẳng định rằng cả một thời đại không có tác phẩm nào thứ hai sáng láng, chỉnh chu như Đoạn trường tân thanh và chữ nghĩa ở đó thì kỳ diệu mãi hàng nghìn năm trên nước ta: “Hữu minh nhất đại vô song kỹ Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ” Cụ nghè Vũ Đức Mẫn thì ca ngợi bút pháp giỏi giang lạ lùng của Nguyễn Du so sánh vượt bậc tác giả bản gốc: “Kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm” Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1898) Đào Nguyên Phổ còn ca ngợi đặc tài tả cảnh ngụ tình, với tâm tư nhân vật đến mức: “…mực như muốn múa, mà bút muốn bay…khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết- chán…”,ông còn nêu đại ý- mọi lứa tuổi, mọi giới tính,mọi trình độ cao thấp,mọi nghề nghiệp khác nhau, tất cả đều thích thú: trao đổi, tâm sự, ngâm ngợi rất say mê…và hay tới mức độ dù: câu chuyện buồn khổ tột cùng, chỉ “Vui là vui vậy kẻo mà” (c 1247) – thế mà âm điệu của nó lại như khúc ngâm, bài ca, bản nhạc tuyệt vời của nước ta, nên ông đã khẳng định: “…thật là một khúc Nam âm tuyệt xướng” ông còn coi văn chương của Đoạn trường tân thanh như một thứ men kích thích mạnh mẽ tâm hồn người, tới mức ông bàng hoàng thốt lên: “Ôi! Sao mà lại có thứ văn làm say người đến thế!” Phó giáo sư Đào Thản còn đánh giá chữ nghĩa của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh tài giỏi ngang với Ông Trời , không còn ai hơn nữa: “Tài dùng chữ và sắp chữ của Đại thi hào Nguyễn Du đạt tới trình độ hóa công” Thứ trưởng bộ Giáo dục nước ta khi trước Võ Thuần Nho thì đánh giá cao sự vĩnh hằng xác đáng của Đoạn trường tân thanh và các nhân vật trong truyện là: “Truyện của muôn đời, viết về những con người muôn thuở” (Cũng xin mở ngoặc rằng các bậc danh tài, chức sắc xưa nay không chỉ khen ở tài thơ văn xuất chúng mà còn nhiều điều ca ngợi cả về tài “kinh bang tế thế”, điển hình ở câu đối viếng cụ nêu rất toàn diện như sau: “Nhất đại tài hoa, vi sứ vi khanh sinh bất thiểm Bách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc tử do vinh”) (Một đời tài ba đi sứ, làm quan đều chẳng thẹn Trăm năm sự nghiệp với nhà với nước mãi còn vinh) Kính thưa các quí vị. Còn rất nhiều, rất nhiều điều ca ngợi Nguyễn Du và Đoạn trường tân thanh của các bậc danh tài, chức sắc trong nước, như: bậc đại nho thế kỷ 18 Nhã Bá Sĩ, tiến sĩ Phạm Quí Thích, Mộng Liên Đường chủ nhân, Nguyễn Văn Vĩnh, cụ nghè Nguyễn Văn Thắng, vua Minh Mạng, Tự Đức; thi sĩ Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, nhà sử học Trần Trọng Kim, học giả Phạm Quỳnh, chủ súy Tự lực văn đoàn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Văn Hiền, Hà Huy Giáp, học giả Hoài Thanh, các giáo sư: Trần Văn Giàu, Dương Quảng Hàm, thi sĩ: Xuân Diệu, Tố Hữu .v.v . Song hơn hết nữa, kính thưa các quí vị là không phải: “mẹ hát con khen hay” mà ngay cả rất nhiều học giả, giáo sư có tên tuổi trên thế giới cũng ca ngợi Nguyễn Du và Đoạn trường tân thanh hết tầm, chúng tôi xin phép chỉ nêu điển hình một vài điều đó: Ở Nhật Bản: Kô-ma-tsu KiyC-shi, người dịch Đoạn trường tân thanh từ văn bản tiếng Pháp, được NXB Đông Bảo phát hành ở Nhật, ông đã công nhận thẳng thắn, vô tư là: “Nguyễn Du nhân bản hơn Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã nêu lên tất cả các đặc tính nhân văn: trung thành, kính tâm, hiếu tâm, ái tâm và trinh tháo”. Không những thế, ông còn khẳng định tính dân tộc cao đẹp của nhân dân ta ở Đoạn trường tân thanh là: “Muốn biết rõ tâm hồn người An Nam thì phải đọc cuốn sách này”. Người Pháp: Rene Caray ssac Rơ-nê-cờ-rét sắc. một trong những người nghiên cứu dịch Đoạn trường tân thanh ra Pháp ngữ cũng đã ca ngợi tác phẩm và tác giả này tới bậc tột cùng của muôn thuở, muôn phương, là: “Áng thơ tuyệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém văn chương kiệt tác của bất kỳ thời nào, nước nào” Georges Boudarel Gióc-giơ Bu-đa ren. đã ca ngợi tài năng hiếm có trên thế giới được thấm sâu vào tiềm thức nhân dân ta của Nguyễn Du, và coi Đoạn trường tân thanh là một cuốn kinh điển đặc biệt, không chỉ dành riêng cho ai, đó là: “Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn kinh điển của văn chương Việt Nam, nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không ai là ngoại lệ”. Song, đặc biệt, đặc biệt hơn cả là ngay người Trung Quốc đã chê bai tác phẩm, tác giả bản gốc của chính nước mình, mà lại đi ca ngợi Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du- ở nước khác là danh giá nhất: Tôn Khả Đệ, chuyên gia nghiên cứu tiểu thuyết ở Trung Quốc đã đánh giá năng lực của Thanh Tâm Tài Nhân quá thấp kém, là: “ Người xưa tiết hạnh lạ lùng đến thế, không may lạc vào sách của kẻ tầm thường nên cảnh tượng mới ra như vậy”. Giáo sư Đổng Ngọc Thành, trường Đại học Liêu Ninh, (mãi đến năm 1960) còn ngỡ ngàng mới biết có sách Kim Vân Kiều truyện, nên đã nêu về sự lu mờ của nó là: “…cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ…” (có nghĩa là:các sách hay khác đè lấp lên nhiều tầng lớp, chôn vùi lâu lắm rồi, nếu không được Nguyễn Du “khai quật” lên thì không rõ đến bao giờ, còn bao nhiêu thế kỉ nữa ngườì ta mới biết đến nó, hay vĩnh viễn không bao giờ được ai biết tới- vì Kim Vân Kiều bị “vùi lấp”, nên Nguyễn Du phải “cổ lục”), và chính Đổng giáo sư, tự nhận thấy rõ sự nổi tiếng trên văn đàn thế giới của Đoạn trường tân thanh từ văn tự chính thống ở Trung Quốc là: “…qua giáo trình văn học nước ngoài được biết ở Việt Nam có truyện thơ nổi tiếng thế giới gọi là truyện Kim Vân Kiều…” Quả là: “Thùy tinh ất bách dư niên hậu Thiên hạ mạc vô mộ Tố Như” (Ai ngờ mới qua trăm năm lẻ Thiên hạ ai không mến Tố Như) Giáo sư Hà Minh Chi đã tổng luận sự ngưỡng mộ trong thiên hạ đối với Nguyễn Du một cách không ai ngờ tới, như thế đấy! Kính thưa các quí vị. (2. Điểm các tác phẩm,tác giả) Để minh chứng thêm về giá trị cao quí tột cùng của Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du, chúng tôi xin điểm qua một vài tác phẩm, tác giả nổi tiếng trong nước và nhất là trên thế giới để đối chiếu, như sau: -Ở nước ta, có: Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm. Các thơ ca của: Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Tố Hữu… Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu; và: các truyện ngắn, tiểu thuyết của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Thiệp. v. v. -Ở nước ngoài- -Gần ta nhất là Trung Quốc, có: Tứ đại kỳ thư – Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Lại Am. Hiệp khách hành, Khúc thanh bình của Lý Bạch. Tỳ bà hành của Bạch cư dị. Thu hứng của Đỗ Phủ. Xúc cảm của Trương Cửu Nguyên. Cỏ dại, A Q chính truyện của Lỗ Tấn… – Ở Nga có: Chiến tranh và hòa bình, Phục sinh của Lép–tôn–Stôi. Sông đông êm đềm của Sô-lô-khốp. Những áng thơ tuyệt vời về tình yêu của Pút-Skin. Những vần thơ triết lý hóm hỉnh của Mai-a-cốp-Sky – Ở Pháp có: Balzac với Tấn trò đời, Miếng da lừa… Vic-to-huy-gô với Nhà thờ đức bà Pari, Những người khốn khổ… – Ở Anh có: Uy-ly-am Sếch-xpia, với 37 vở kịch, tiêu biểu như Hăm-lét, Ô-ten-lô,và hai bộ thơ dài 154 bài… -Ở Đức, có: Gớt –góp một nửa thành ngữ cho đất nước, Nổi tiếng với vở kịch Phanh-tơ… – Ở Mỹ có: Henri Woadsowwett Longfellow, với nhiều tập thơ hay như Giọng của đêm… – Ở Italia có: Đantê (Dante Alighieri) với Thần Khúc… – Ở Hy Lạp có: Hô-me với sử thi: I-lo-át và Ô-đít-xây … .v.v. và.v.v. (3. So sánh) Không kể ở nước ta do tầm cỡ nhất định; nếu so sánh các tác phẩm, tác giả lớn trên thế giới có số lượng khổng lồ, trác tuyệt mọi thể loại, mọi thời đại, với chỉ có duy nhất một tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du thì nghe ra có vẻ kệch cỡm, nhưng đi sâu vào đối chiếu giá trị thì mới thấy sự cao quý, vô song của Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du. Bởi vì: 1.Nếu các tác phẩm, tác giả lừng danh trên thế giới có gì siêu phàm thì Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du đều có, cụ thể là: 1.Về danh hiệu tác phẩm: Là kinh điển, kinh thánh, kiệt tác, trác tuyệt .v.v. Là được dịch ra nhiều ngoại ngữ. Là nguồn cảm hứng của các loại hình văn hóa, văn nghệ như: kịch, tuồng, phim, âm nhạc, hội họa.v.v. 2.Về danh hiệu tác giả: Là đại thi hào dân tộc. Là danh nhân văn hóa thế giới. Là thiên tài. Là thánh nhân . 3.Về khổ luyện thành tài: Nếu như: nhiều tác phẩm lớn nổi tiếng trên thế giới với số lượng đồ sộ của cùng một tác giả đã phải kỳ công sáng tác; bằng lao động cả một đời người, thì: Nguyễn Du cũng phải thế!- dù chỉ với một tác phẩm tiêu biểu… Để khỏi tản mạn trong việc đối chiếu, chúng tôi xin trình bày điều khổ luyện thành tài này, riêng một mục sau, còn bây giờ xin đối chiếu ngay về những điều, mà: 2. Đoạn trường tân thanh có rất độc đáo, đặc sắc thì không chỉ các tác phẩm trong nước, còn kể cả các tác phẩm lớn trên thế giới cũng không có, đơn cử năm điểm sau đây: Dù các tác phẩm trên thế giới được mệnh danh là kỳ thư hay kinh điển, kinh thánh, trác tuyệt, gì gì đi nữa thì khi đọc xong là hiểu được ý của tác giả. Chỉ duy nhất Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du là: Dẫu đọc đi đọc lại nhiều lần, dẫu nghiền ngẫm hết năm này qua năm khác,dù là nhà nho uyên bác, hay giáo sư tiến sĩ lừng danh, dù là học giả hay trí sĩ nổi tiếng, dù là nhà văn nhà thơ hay nhà phê bình văn học có tên tuổi, dù là người trong nước hay nước ngoài tài ba ở mọi lĩnh vực, thế mà ngay từ khi Đoạn trường tân thanh đăng đàn cho đến nay đã gần hai trăm năm vẫn chưa ai hiểu hết ý tứ sâu xa, thâm thúy, tài tình, thần kỳ của tác giả để thấy hết “cái hay”, “cái đẹp” của tác phẩm. Đó là điểm thứ nhất, thâm sâu không ai có Mặt khác, cũng như ngoài các thể loại văn hóa, văn nghệ mà các tác phẩm nổi tiếng trên thế giới tạo được nguồn cảm hứng là: kịch, tuồng, phim, âm nhạc, hội họa .v.v. nêu trên, thì không những thế Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du còn có các thể loại khác nữa, tuy mang đặc trưng dân tộc, nhưng trước cũng như sau đó chưa từng có kể cả các tác phẩm ở trong nước và nước ngoài, đó là: Đố Kiều, lảy Kiều, văn tế Kiều, án Kiều, tập Kiều, hát nói Kiều, hậu Truyện Kiều và giai thoại về Truyện Kiều nhiều nhất, đọc ngược Truyện Kiều (điều này từ trước đến nay chỉ có ở các bài thơ không dài). Hơn thế nữa, dân gian còn sáng tạo riêng một giọng điệu ngâm thơ Kiều rất ý nhị, dịu dàng, lay động lòng người. Song, đặc biệt hơn cả: dù chỉ là sách truyện chứ không phải là sách bói, nhưng Đoạn trường tân thanh đã thấm sâu vào cõi tâm linh huyền diệu của dân tộc, với một niềm tin tối linh, màu nhiệm là bói Kiều. Đồng thời Nguyễn Du được coi như là thánh nhân. Đó là điều thứ hai, tinh túy không ai có. Ngoài ra, cũng không có tác phẩm nào trong nước và ngay cả trên th¬¬¬¬ế giới đã sử dụng các điển cố, điển tích của nước ngoài nhiều đến thế, lại biến ảo thâm sâu, nhuần nhuyễn thành Việt hóa, để dù người không có học, không biết điển cũng hiểu ý thơ của Đoạn trường tân thanh; nhưng lại lạ lùng tới mức người có học thì mỗi người hiểu mỗi khác đều có lý riêng, nên đã gây tranh luận rất sôi nổi ở nhiều câu thơ khác nhau- trong nhiều nhà thơ, nhà văn, học giả, giáo sư tiến sĩ nổi tiếng, nhà nho uyên bác. Điển hình là cuộc tranh luận kéo dài hàng hai mươi năm, qua hai đợt (1974 và 1996) vẫn chưa ngã ngũ chỉ vì hai tiếng “gươm đàn” trong câu thơ: “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo” (c2174) Tài ba của Nguyễn Du là ở chỗ chỉ đông, nói tây làm cho nhiều người dù rất cao kiến vẫn cứ mơ hồ ví như ở đây: đã không biết là ông dùng điển để lấy ý của điển, hay ý của¬¬ riêng ông(?)… Theo chúng tôi nghĩ, ở câu thơ 2174 nêu trên thì ông chỉ mượn tích thơ Hoàng Sào, là: “Cung kiếm nửa vai trời thả cửa Non sông một mái đất cùng nơi” Rồi ông đã khéo léo thay chữ “cung” thành chữ “đàn”, còn chữ “kiếm” ông gọi là “gươm” thì cũng thế thôi. “Cái tinh vi” của câu thơ này là ở đó. Còn “cái uẩn ảo” của nó ở chỗ Nguyễn Du muốn chỉ ra rằng: Từ Hải không phải là kẻ chỉ biết vũ dũng là dùng “gươm” mà còn rất nghệ sĩ là người biết chơi đàn. (phù hợp với tâm hồn Thúy Kiều – ông đã ướm ý trrước). Nhưng hơn thế nữa Từ Hải còn là nhà chính trị, văn hóa, tâm lý- đã động viên quân sĩ bằng ca nhạc, biểu trưng trong câu thơ nêu trên là “đàn”- như kiểu hát trống quân giống vua Quang Trung, (chứ ở chiến trường, không thanh thản hưởng lạc đàn xướng theo kiểu Kim, Thúc được)- có lẽ đó mới là ý đồ chính xây dựng nhân vật toàn tài này của Nguyễn Du…; Và việc đánh phá triều đình nhà Minh thì Từ Hải “nhẹ như lông hồng”, không chỉ lao vào chiến địa, mà vẫn thảnh thơi vui ca hát. Thêm vào đó, có lẽ Nguyễn Du đã cụ thể hóa hình tượng rất thi vị, dân dã rằng: cuộc chinh chiến của Từ Hải đơn giản như việc làm bình thường của người nông dân là với một bộ quang gánh, thì: Nửa này gồm gươm, Nửa kia gồm đàn. Sự cân bằng giữa vũ khí chiến đấu với dụng cụ âm nhạc, giữa đánh nhau và ca hát cũng thể hiện việc chống phá vua tôi nhà Minh của Từ Hải là nhẹ tênh mà vẫn ngang ngửa : “Triều đình riêng một góc trời Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà” (c2442) Còn vế thơ sau: “non sông một chèo” có lẽ Nguyễn Du muốn nói rằng đánh nhà Minh, Từ Hải chỉ có một mình, một tay chèo lái mà đã mở mang đất đai rộng lớn, thắng lợi vẻ vang; còn sau này khi nghe lời Thúy Kiều thì “vua cũng mất nước vì đàn bà” (thậm chí Từ Hải còn mất mạng). Đó là điều truyền miệng của người xưa- đây cũng là“cái tinh vi uẩn ảo” của ông đã cảnh báo các bậc vương giả rằng: “anh hùng nan quá mĩ nhân quan” (anh hùng khó qua ải mĩ nhân). Như vậy, ở câu thơ thứ 2174 nêu trên Nguyễn Du chỉ mượn tích, nhưng đổi ý của mình mới đáng giá, gây tranh cãi. (Riêng xét về dáng oai hùng với chiến thắng thần tốc và cuộc đời, sự nghiệp ngắn ngủi của Từ Hải, phải chăng Nguyễn Du đã thêm thắt đôi điều cao đạo từ nguyên mẫu vua Quang Trung- Nguyễn Huệ: biết đâu thay “cung” bằng “đàn” ông chẳng nghĩ đến sự chuyện hát trống quân để yên vui quân sĩ; và nêu “nửa gánh” ông lại nghĩ đến Nguyễn Huệ từ nông dân mà ra- rất dân dã, rất Việt Nam – Quang Trung đại phá quân Thanh năm Nguyễn Du ở tuổi 25 quá rõ sự kiện này; Và mặc dù trước đó bị quân Tây Sơn bắt giam, lại làm quan dưới triều Gia Long (phe đối địch), nhưng Nguyễn Du không hề trách cứ, chê bai nhà Tây Sơn, phải chăng vì ông khâm phục tài trí của vua Quang Trung nên đã gán vào nhân vật ưu ái của mình, cho cao thượng,mưu trí, cũng ví: điều ông đã cho Từ Hải xuất hiện huyền ảo vào đêm trăng thanh gió mát, như các tiên ông trong những câu chuyện cổ tích dân gian: “Lần thâu gió mát trăng thanh (c2165) Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi” ) Sự vận dụng điển tài tình , đó là điều thứ ba, không ai có. Mặt khác, nhiều tác phẩm vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, nhưng chỉ có Đoạn trường tân thanh là đưa ca dao, tục ngữ, thành ngữ, vào rất tinh tế, đến mức nhẹ nhàng như ru và ngược lại chính Nguyễn Du lại sáng tạo ra những vần thơ trong truyện đã trở thành ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Đó là điều thứ tư, gần gũi, gắn bó,giao duyên với văn học dân gian, rất đặc sắc không ai có. Điều thứ năm đáng kể nhất, cũng không ai có, là: Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật phục bút rất tinh tế, độc đáo: lúc ở đầu, lúc ở giữa, lúc ở cuối trong những tình tiết, đoạn thơ- đó cũng là một cách tạo nên “cái tinh vi uẩn ảo”; Trong khi ở văn xuôi vận dụng nghệ thuật này đã khó, còn ở văn vần thì không chỉ trong nước mà ngay cả trên thế giới từ trước tới nay cũng chưa ai có, dù áng thơ của họ rất trác tuyệt. Để minh chứng rằng những đối chiếu trên là không chủ quan, chúng tôi xin nêu 5 kỷ lục thế giới và 7 kỷ lục Việt Nam của Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du mà giáo sư Dương Quảng Hàm đã dày công truy cứu rất đáng trân trọng như sau: 5 kỷ lục thế giới là: 1. Truyện Kiều là thi phẩm duy nhất có được hiện tượng chắp nhặt những câu thơ ở các chỗ khác nhau thành bài thơ mới, đây gọi là hiện tượng tập Kiều. 2. Thi phẩm có nhiều bản dịch nhất ra cùng một thứ ngoại ngữ (10 bản) tiếng Pháp: thành thơ tự do, thể Alexandins (12 chân) hoặc văn xuôi từ Abeldes Michels (2 tập) in tại Pari năm 1884 – 1885. 3. Thi phẩm có nhiều người viết phần tiếp theo nhất: 7 quyển hậu Kiều. 4. Thi phẩm duy nhất trên thế giới đọc ngược từ cuối lên đầu về cuộc đời nàng Kiều theo chiều thời gian ngược. 5. Cuốn sách duy nhất trên thế giới tạo ra quanh nó cả một loạt những loại hình văn hóa – gọi là văn hóa Kiều với các hình thức rất phong phú như bình Kiều, vịnh Kiều. bói Kiều, tập Kiều, đố Kiều, câu đối Kiều, hát nói tập Kiều. 7 kỷ lục trong nước là: 1. Một tác phẩm đưa nhà thơ lên hàng danh nhân văn hóa thế giới. 2. Là cuốn sách duy nhất không phải viết ra để bói mà người dân vẫn dùng bói được… 3. Là quyển sách có được hiện tượng vịnh Kiều với hàng ngàn bài thơ vịnh. 4. Bộ phim đầu tiên ở Việt Nam ra đời năm 1924 tại Hà Nội mang tên Kim Vân Kiều (phim câm). 5. Thi phẩm có hàng trăm sách viết về nó, nhiều nhất Việt Nam. 6. Là quyển sách gây nhiều giai thoại nhất. 7. Là cuốn sách được viết và đóng thành truyện Kiều độc bản bằng chữ quốc ngữ nặng nhất Việt Nam do nhà thư pháp Nguyệt Đình viết trên 300 trang giấy cossin trên khổ giấy 1m x 1m6cm, nặng 50 kg hiện trưng bày tại khu di tích Nguyễn Du huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Kính thưa các quí vị… Chúng tôi xin phép được trở lại trình bày tiếp điểm thứ ba nêu trên mà các tác phẩm, tác giả lớn trên thế giới có, thì Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du cũng có, đó là: 3.Khổ luyện thành tài – Xin nhắc lại rằng: Nhiều tác giả lớn trên thế giới đã dụng tâm sáng tác những tác phẩm nổi tiếng với số lượng khổng lồ các thế loại, bằng lao động cật lực cả một đời người, thì Nguyễn Du cũng vất vả như vậy. Dù chỉ với một tác phẩm tiêu biểu là Đoạn trường tân thanh, nhưng sự khổ luyện thành tài của Nguyễn Du, nếu nghiền ngẫm kỹ thì có lẽ trên thế gian này cũng hiếm có người kỳ công “lao tâm khổ tứ” như thế, có lẽ: Không phải, Nguyễn Du đã có được bản Kim Vân Kiều truyện trước khi ông đi sứ, do người khác mang về, để Đoạn trường tân thanh được sáng tác ngay từ thời gian đó. Hoặc là sau khi đi sứ cho đến lúc ông qua đời chỉ khoảng 5, 6 năm thì làm sao có đủ thời gian để mà viết nổi 3254 câu thơ tuyệt mĩ với một tác phẩm quá viên mãn như thế được; nếu như không phải có rất nhiều năm hơn thế nữa, để chỉnh sửa hết bản thảo này, đến bản thảo khác. Vì thế, phải chăng: Ngay từ tuổi ấu thơ, được sống trong nhung lụa, sung túc tột cùng nơi kinh đô Thăng Long, ông đã chứng kiến: “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” (c 1230) do tâm tính ưu tư, nhân ái, Nguyễn Du đã thấy rõ thân phận trớ trêu nửa cười, nửa khóc của các cung nữ, kĩ nữ- biết đâu, qua sự chuyện Cung oán âm khúc của Nguyễn Gia Thiều, và cũng biết đâu nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã bổ sung cho ông ý, tứ của những cảnh, những tình ai oán, từ những câu thơ bi đát về số phận đàn bà, như: “Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không” nên đã nhen nhóm trong lòng ông về một tác phẩm phong tình. Tuy vậy, có lẽ phải đến một sự kiện mãnh liệt nhất đầu đời, làm đảo lộn tâm tư, tình cảm của Nguyễn Du đó là sau thất tình, hận tình cùng cô gái lái đò bên sông Nhị Hà đã khiến tâm trạng ông xao động, điều này cũng dễ hiểu thôi vì bất kì ai trước cái gọi là: “Tăm đầu bọt nước phút giây tan Sớm nở hoa xuân lại sớm tàn Riêng mối tình đầu ê ẩm mãi Nở hoa trong dạ thấm lâu hơn” Từ nỗi “ê ẩm”, “thấm lâu” của “mối tình đầu” bị tan vỡ ấy, nó đã đeo đẳng mãi đến tận 10 năm sau đó, khi có vợ con rồi, vẫn còn canh cánh nặng trĩu bên lòng, Nguyễn Du tìm lại bến cũ để đến nỗi bâng khuâng, ngao ngán nghĩ tới người xưa mà đứt từng khúc ruột, đau xót thăm thẳm đáy lòng gấp nghìn lần bể sâu, để ngậm ngùi, ai oán, ngầm trách người anh đã “chia đàn xẻ nghé”, với những vần thơ nhói tim, nát gan: “Yêu nhau cũng muốn gần nhau Bể sâu trăm trượng tình sâu gấp mười Vì ai cách trở đôi nơi Bến xưa còn đó nào người năm xưa” Vâng!- Phải chăng nỗi lòng day dứt, ân hận về: “mối tình đầu ê ẩm mãi” ấy bị “cách trở đôi nơi”- đó là nguyên nhân chính để Nguyễn Du ấp ủ, nung nấu viết về nỗi thương đau, thiệt thòi của thân phận người phụ nữ đương thời; và cũng có lẽ ông đã tâm niệm phải làm điều đó để trút bỏ lòng tự ái của mình, bởi vì: ngang nhiên là “đấng nam nhi quân tử”, dòng dõi quyền uy khuynh đảo xã tắc, mà ông lại không có bản lĩnh tự bảo vệ, định đoạt hạnh phúc của chính mình, dù rằng sự ngăn trở đó từ đâu; đã thế còn làm liên lụy đến một cô gái thơ ngây, trong trắng, ý nhị, dịu hiền, đáng yêu mà ông đã nặng tình, nên đã thôi thúc ông phải cầm bút để viết, để trả nợ đời, nợ tình, như ông đã sớm sám hối trong Đoạn trường tân thanh: “Nợ tình chưa trả cho ai Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” (câu 710) (Chỉ có sự thổn thức của chính lòng mình mới có được tiếng “ai” não nuột như thế trong tuyệt tác này). … Rồi sau đó, đọc Tiểu Thanh kí, là những bài thơ, bài từ ai oán ghi lại của người thiếu phụ trẻ bất hạnh bị vợ cả o ép, đầy đọa cả thể xác lẫn tinh thần ở nơi xa vắng Cô Sơn, ông đã có thêm tư liệu về cảnh đẹp, về tình đời đớn đau,về nỗi u uất, bi ai của thân phận của người thiếu phụ, với: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (câu 1244) Than khóc sự uổng phí cuộc đời của cô gái đẹp, ông càng thương xót tài thơ văn của bậc nữ lưu, thì ông lại càng nghĩ đến tài trí nam nhi hơn người của mình (như Đại Nam liệt truyện có viết: “Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ…”), nên ông đã bùi ngùi ngẫm ngợi rằng liệu sau này có ai hiểu được ý tứ thơ văn thần kì của ông không, mà khóc thương ông như ông đã thương khóc Tiểu Thanh khi đó, nên trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, ông đã bất giác than rằng: “Bất tri tam bách dư liên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” Như vậy: Với cuộc sống phong lưu tột cùng ở kinh đô, đầy ưu tư như nêu trên. Nhất là với nỗi đau đớn thất tình, hận tình đầu đời; Với những điều ngang trái, uất ức của cô gái tài sắc, ghi lại trong Tiểu Thanh kí; Qua cuộc sống long đong, lận đận, cơ hàn khắp nơi, và rồi có danh vọng: – Lúc ở Bắc Ninh quê mẹ, – Khi lên Thái Nguyên cha nuôi, – Lúc ở quê vợ Quỳnh Côi Thái Bình, ăn nhờ ở đợ ròng rã 10 năm trời, -Khi về quê cha đất tổ ở Tiên Điền Nghi Xuân Hà Tĩnh vào tuổi 32 (ngoài”tam thập như lập”) -Lúc hết hàn vi vào độ chín (38tuổi), Nguyễn Du có chức có quyền, làm quan huyện rồi quan phủ, lên quan triều đình, từ ngoài Bắc đến miền Trung. -Khi làm chánh sứ sang Trung Quốc với một cuộc viễn kinh “đi một ngày đàng học một sàng khôn” vào tuổi 49 xế chiều. Bằng những trải nghiệm cuộc đời thăng trầm “Ba chìm bảy nổi, chín lên đênh”; từ phú quý tột cùng nơi kinh đô; đến đói nghèo, và thấy cảnh áp bức nơi thôn dã; từ cơ hàn đó đây đến quan chức; từ bôn ba trong nước đến đi nước ngoài, Nguyễn Du thấu hiểu hết mọi cảnh đời, sự đời hay dở. Đồng thời, với trí tuệ uyên thâm “thiên kinh vạn quyển”, kiến thức rộng lớn mọi mặt ở trường đời, bằng con mắt tinh tường quan sát toàn diện, tỉ mỉ mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, cùng đức tính cẩn trọng rào trước đón sau; lại sẵn tâm tính ưu tư, mẫn cảm, nhất là lòng nhân ái cao cả, bao dung, và như đã nêu trên, ông phải trả nợ đời, nợ tình, nên dù không có Kim Vân Kiều truyện thì Nguyễn Du cũng sáng tác một tác phẩm Đoạn trường tân thanh khác với hình mẫu: cô lái đò bên sông Nhị Hà thương yêu, Tiểu Thanh ai oán, và mọi hình ảnh, hình tượng, nỗi chua chát, xót thương của những cô gái trong dân gian với mọi điều dân giã, như ông đã bộc bạch ở cuối Đoạn trường tân thanh: “Lời quê chắp nhặt dông dài” (c 3253) (từ cổ: dông dài nghĩa là ở khắp mọi nơi). Song, nhờ duyên kỳ ngộ, Nguyễn Du đã may mắn có được bản gốc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên ông không phải mất thời gian để xây dựng cốt truyện, mà chỉ chuyên tâm vào việc: sắp xếp, lắp ráp, chỉnh chu những tình tiết; sửa chữa, gọt rũa các câu chữ đã viết sẵn và bổ sung thêm những câu thơ nữa, hun đúc, hoàn thiện Đoạn trường tân thanh viên mãn như ngày nay; mà như ông vua hay chữ Tự Đức, dù bất đồng chính kiến, cũng đã phải ghi nhận, ca ngợi cả về nghệ thuật lẫn nội dung của kiệt tác này đại ý là: Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể sửa được dù chỉ là một chữ, và: Nếu Nguyễn Du còn sống sẽ nọc ra đánh cho 300 trượng (có ý kiến cho là 30 trượng, theo tôi nghĩ, như thế sẽ chưa thể hiện hết tầm vóc vĩ đại của tác phẩm và quyền uy của một ông vua, nhất là trong thực tế điều này có thực hiện được đâu) Để minh chứng thêm là: Không phải Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh trước hay sau khi đi sứ mà ông đã phải viết cả cuộc đời như trình bày trên (thì thơ văn mới chuẩn mực, tuyệt diệu được như thế); còn là vì rằng: thực tế mãi sau 46 năm khi ông qua đời, chúng ta mới có bản Kiều nôm gọi là cổ nhất; có nghĩa là dù bất kỳ lý do gì, tác phẩm Đoạn trường tân thanh này phải khai sinh vào cuối cuộc đời ông. (Và biết đâu với bút pháp tài nghệ trong Đoạn trường tân thanh: để trả nợ tình, Nguyễn Du đã đổi đời cho cô gái lái đò bên sông Nhị Hà được cộng hưởng bằng một cuộc sống hạnh phúc, êm ấm của Thúy Vân, với phong tư đôn hậu như nguyên mẫu; còn Thúy Kiều mang cả tài sắc của Tiểu Thanh với những nỗi ngang trái tuy có khác, nhưng hậu vận được đoàn tụ gia đình. Hơn nữa, để trả nợ đời- Kim Trọng với Thúy Vân phải chăng là ước mơ hạnh phúc của chính mình sau thất tình, chứ không phải cuộc sống thực với nỗi u sầu đeo đẳng tận cuối đời ông). Đó cũng là điều mà các tác giả lớn trên thế giới đã phải khổ luyện thành tài bằng lao động hết mình, cả đời người – thì Nguyễn Du cũng có như thế. Nhà bác học Mỹ Ê-đi-sơn đã chỉ ra rằng: “Thiên tài chỉ có 1% là linh cảm; 99% là mồ hồ và nước mắt” Thiên tài Nguyễn Du là như vậy đấy! Thơ văn tuyệt diệu lừng thiên hạ, Chữ nghĩa thâm sâu chấn địa cầu. Kính thưa các quí vị. (4. Chọn Kim Vân Kiều truyện) Để thấy rõ sự sâu xa… khôn khéo, là: Vì sao trong kho tàng văn học đồ sộ của Trung Quốc, thiếu gì các tác phẩm hay hơn nhiều, thế mà Nguyễn Du lại chọn tác phẩm quá tầm thường, của kẻ tầm thường mà Đổng giáo sư và Tôn học giả, đã nhận xét (như nêu ở trang 3 trên). Phải chăng ở Kim Vân Kiều truyện: – Vì ông thấy nàng Kiều phù hợp với mẫu hình đã viết từ trước, nên ông chỉ cần chỉnh chu mọi mặt là hoàn thành tác phẩm mau chóng (bởi cốt yếu là nhân vật chính này xuyên suốt tác phẩm- với tâm tư sâu nặng của ông). – Vì ông thấy tác phẩm này có nguồn gốc lịch sử thì đương nhiên đã tạo nên niềm tin cho độc giả về những điều có thật, được truyền tụng lâu rồi. – Vì ông thấy tuy Kim Vân Kiều truyện dù thành tiểu thuyết, nhưng tên nhân vật chính vẫn giữ nguyên theo sách sử, còn tên các nhân vật phụ thì lại có ý nghĩa sâu sắc như :Tú bà, Sở khanh.v.v.nên ông chỉ cần chấm phá vài nét hình hài, tính cách của chúng sẽ thành điển hình, là chiếm được lòng tin yêu của độc giả về câu chuyện có thật, vì thế ông không cần thay đổi chi tiết này. – Vì ông thấy Kim Vân Kiều truyện dù viết quá tầm thường, nhưng bố cục, tình tiết vẫn đủ tạo nên một câu chuyện phong tình ngọn ngành, có đầu có cuối. Nhất là với tài ba của ông chỉ cần sáng tạo thêm với quan điểm nhân văn mới của mình và lược bỏ, chỉnh sửa các tình tiết cho hợp lẽ, hài hòa, là xây dựng được niềm tin ở độc giả về câu chuyện hay, có thật. – Vì ông biết rõ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện- viết quá tầm thường, khi ông chuyển thành kiệt tác sẽ tăng thêm sự chú ý của mọi người khi so sánh cũ với mới thì danh giá “tân thanh” của ông càng cao hơn, có khi còn lợi ích hơn nhiều nếu ông xây dựng một cốt truyện khác. – Vì từ tiểu thuyết, ông đã tinh tường chuyển thể: chọn thơ lục bát gần gũi ca dao dân tộc, gần gũi quần chúng, vừa dễ thuộc, dễ gieo vần; nhất là còn tạo được sự cảm phục của những người có học khi ông lại sáng tạo thêm vần điệu mới, càng làm thể thơ này sống động hơn, hay hơn, danh tiếng văn tài của ông càng được nổi bật hơn;- cùng với tài hoa văn chương của ông, một phần cũng do thể thơ lục bát chải chuốt nên dù câu chuyện này là Đoạn trường tân thanh, nhưng lại thành khúc ngâm, bài ca, điệu nhạc du dương, mà như nêu trên, Đào Nguyên Phổ đã đánh giá tới đỉnh cao văn hóa, văn nghệ dân tộc của tác phẩm này: “… là khúc Nam âm tuyệt xướng”. Kính thưa các quý vị. (5.Chê,sửa) Để thêm rõ hơn nữa tài ba sáng láng của Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh xin nhìn nhận sơ qua những điều sau đây: * Về những điều chê Đoạn trường tân thanh, thì.- Thời gian đã chứng minh rất sáng tỏ rằng: dù bất kỳ lý do gì, đó là quan điểm bảo thủ lạc hậu, không hiểu được tư tưởng Nguyễn Du vượt quá xa thời đại. * Về những câu thơ đã sửa của Đoạn trường tân thanh, thì ai cũng thấy rõ ràng là: – Thơ chẳng ra thơ, -Văn xuôi chẳng ra văn xuôi, -Chữ không ra chữ, – Nghĩa không ra nghĩa, đã thế thậm chí còn: -Lủng ca, lủng củng, lẩm cẩm nữa chứ! Làm sao có thể so sánh với sự thâm thúy, tài hoa của Nguyễn Du được, có khác nào một vực với một trời. Dù có “đem vôi quét trả đền” thì cũng không thể xóa nhòa vết nhơ muôn thuở, với búa rìu thiên hạ muôn đời. Kính thưa các quý vị. Nổi tiếng như giáo sư Nguyễn Bách Khoa- Trương Tửu đã phải thừa nhận văn chương Đoạn trường tân thanh rất cao thâm, rằng: “… Chân tướng nghệ thuật của nó vẫn còn là một bí mật chưa ai khám phá ra được” Có nghĩa là khi chưa hiểu ý Nguyễn Du viết gì, nói cái gì, điều gì, trong Đoạn trường tân thanh thì biết gì mà chê, mà sửa. Phải chăng chỉ nên duy nhất là “thưa thốt” những lời khen mà thôi. Sự suy tôn danh giá tột cùng của Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du ở dân tộc ta và nhân loại văn minh đến nay vẫn “bất di, bất dịch” (về danh hiệu Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa Thế giới) là bằng chứng hùng hồn xóa nhòa những lời chê, những sự sửa thơ Đoạn trường tân thanh. Nhân đây xin mượn điều khẳng định của nguyên soái nước Liên Xô xưa G. Ju-cốp, tuy nêu về lĩnh vực khác nhưng vẫn đúng với Đoạn trường tân thanh và Nguyễn Du, đó là: “Có thể xuyên tạc lịch sử. Song không thể làm lại lịch sử, không thể bác bỏ những kết quả của lịch sử. Sự thật dù thế nào chăng nữa vẫn sẽ thắng”. Và cũng xin mượn thêm lời minh oan cho Nguyễn Trãi của vua Lê Thánh Tông để chỉ rõ sự trong sáng và cao đẹp của Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh, đó là: “Tố Như tâm thượng quang khuê tảo”. … Có quan điểm cho rằng tư tưởng của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh bị hạn chế do thời đại, thì liệu có thỏa đáng chăng?- bởi vì ngoài biểu hiện về tấm lòng nhân ái cao cả, Nguyễn Du không bộc lộ quan điểm gì của mình vào tác phẩm; mà ông chỉ là nghệ sĩ nhiếp ảnh đưa mọi sự hiện thực xã hội đương thời vào “ống kính” của mình, kể cả tâm lí xã hội và các triết lý đạo giáo; đúng quan niệm, quan điểm người đương thời; chỉ khác nghệ sĩ nhiếp ảnh đã dùng ống kính thực để chụp thì cho những bức chân dung dù sành điệu cũng là vô hồn; còn đặc biệt, Nguyễn Du lại chụp ảnh bằng thơ, với chữ nghĩa uyên thâm, bóng bẩy, tài tình, không chỉ vương vấn những tâm tư sâu lắng, mà đã cho những hình ảnh, cảnh vật hữu tình, hữu hồn, sống động, quy mô, tuyệt vời… Kính thưa các quí vị, “…đã hơn một thế kỷ nay, người ta bàn về Truyện Kiều kể đã tốn bao nhiêu lời, cạn bao nhiêu mực mà chân tướng nghệ thuật của nó vẫn còn là một bí mật chưa ai khám phá ra được” – giáo sư Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu đã phải trăn trở như thế, và ông còn bứt rứt nữa là: “…kể bao nhiêu năm rồi mà ngày nay nào ai đã “hiểu” hết được “cái hay”, “cái đẹp” của Đoạn trường tân thanh”; không những thế, ông còn giảng giải: “Học giả uyên bác Đào Duy Anh cũng phải thú nhận rằng: “Cái hay của Truyện Kiều không ai là không cảm thấy. Nhưng hiểu biết cho hết cái hay ấy là một điều rất khó mà giải thích cho ra hết cái tinh vi uẩn ảo ấy là một điều khó nữa””. Như vậy: Từ xưa tới nay, thiên hạ mới chỉ đánh giá về nội dung và nghệ thuật cơ bản giống như ở các tác phẩm khác nổi tiếng trên thế giới, thế mà các bậc danh tài trong nước và trên thế giới đã ca ngợi Đoạn trường tân thanh hết tầm và danh hiệu cao quí đối với Nguyễn Du cũng ngang bằng các tác giả đó – không hơn, không kém (Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa Thế giới) Song, nếu như hiểu hết: “chân tướng nghệ thuật”, “cái hay”, “cái đẹp”, “cái tinh vi uẩn ảo” của Đoạn trường tân thanh thì không biết “trong cõi người ta” sẽ ca ngợi tác phẩm, tác giả này đến mức cao chót vót nào đây? Kính thưa các quí vị. (6.Tinh vi uẩn ảo) Điều khó nhất, không chỉ một người, một thời đại làm được mà: các Ngài và biết bao nhiêu- nhà nho uyên bác, giáo sư, tiến sĩ, học giả, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng xưa nay đã kỳ công phân tích giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của Đoạn trường tân thanh để chúng ta được thừa hưởng một gia tài kiến thức khổng lồ quí giá đó, mới thấy được sự vô giá của tác phẩm này; còn việc tìm ra “cái tinh vi uẩn ảo” chỉ do chịu mò mẫm mà thôi. Có lẽ các Ngài Trương Tửu, Đào Duy Anh đã biết cả những điều đó, nhưng vì quỹ thời gian có hạn, mà khối lượng công việc quá lớn, các Ngài còn muốn có nhiều tác phẩm đủ mọi thể loại, mọi điều, để lại cho đời sau, nên với Đoạn trường tân thanh, các Ngài duy có cách là “chỉ đường, vạch lối” cho hậu sinh chúng ta làm tiếp phần dang dở của các Ngài. …Vì vậy, phải chăng một số tình tiết mà chúng tôi đơn cử trình bày sau đây là làm theo những điều các bậc tiền bối đã chỉ bảo – Muốn thế, trước tiên theo chúng tôi xin lưu ý rằng: khi đọc Đoạn trường tân thanh, dù chỉ một chữ thôi cũng cần suy ngẫm kỹ lưỡng vì không chỉ có rất nhiều ý (đa phương, đa diện) mà còn phải tra cứu nhiều điều sâu xa, thâm thúy; và cũng nên suy ngẫm về các ý tứ khác nữa là : -không nên ám thị bởi chữ nghĩa bác học, mà: -lại quên lưu ý đến chữ nghĩa bình dân, dân dã, cũng rất thâm sâu (và nó cũng góp phần làm nên sự vĩ đại của Đoạn trường tân thanh với Nguyễn Du)- chẳng hạn, phải chăng.- Ở câu thơ thứ 7: “Cảo thơm lần dở trước đèn” Nếu chỉ hiểu theo dịch nghĩa chữ Hán rằng: “Cảo thơm” là ““phương thảo”, tức sách thơm, sách hay” thì cũng đúng thế, nhưng mới chỉ biết ý sơ sài mà thôi, còn có lẽ ý chính thâm thúy của Nguyễn Du là: Truyện Đoạn trường tân thanh này như một di cảo, mà đã là di cảo thì đó là những quyết định “bất di bất dịch” của người đời trước truyền lại cho người đời sau phải thực hiện, không được làm sai mảy may. Hơn nữa, đây lại là “cảo thơm” thì rõ ràng di cảo này rất sáng suốt, đúng đắn, để lại tiếng tốt, tiếng thơm- người đời sau càng phải kính cẩn, răm rắp thực hiện, ngày nay pháp luật vẫn phải tôn trọng thi hành điều này (còn vì sao ở đây ông không bảo “lần dở” “cảo thơm” giữa “thanh thiên bạch nhật” mà xem, có phải rõ ràng hơn không? Và nữa ở câu thơ thứ 7 cùng với thứ 3254, Nguyễn Du đều nêu sự chuyện về ban đêm?- đó cũng là “cái tinh vi uẩn ảo”). Ở câu thơ thứ 8: “Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh” Nếu chỉ dịch chữ Hán rằng:“Sử xanh” là ““thanh sử”. Ở Trung Quốc xưa chép sử vào thẻ tre vỏ xanh”- dù đúng vậy, nhưng không rõ nghĩa của câu thơ đó ( còn “cổ lục” mà đổi là có lục thì nó lại quá tối nghĩa). Phải chăng Nguyễn Du rất chân thực, nhưng rất sâu xa, nêu rằng: Đây là câu chuyện “trai gái”, “ái tình”, sóng gió- nó rất cổ xưa đã lục soát thấy, còn truyền tụng lại như sách sử, song song tồn tại cùng sách sử ( vì thực tế Nguyễn Du đã kỳ công tìm lục được Kim Vân Kiều truyện từ vô vàn sách khác trong thư viện lớn ở Bắc Kinh, như ông đã bộc bạch: “Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”-“cổ lục” nghĩa là lục tìm được cuốn truyện cổ đó- rất dân dã, xúc tích ; như nêu trên là: Đổng giáo sư đã than thở Kim Vân Kiều truyện bị “vùi lấp…”, nên Nguyễn Du phải « cổ lục » cũng đúng thôi !- một cách nói gộp của người xưa). Căn cứ vào mối liên quan về ý nghĩa giữa ba từ: “di cảo”, “cổ lục” và “sử xanh” thì chữ “lục” không phải là Hán Nôm mà là Hán Việt, nên thể hiện rõ : Nguyễn Du muốn khẳng định là câu chuyện này có thật để bạn đọc không nghi ngờ gì nữa, rất hay và đặc biệt là chỉ nên tuân thủ (Duy giới thiệu tác phẩm thôi, mà ông đã mang mục đích sâu xa… cầu kỳ về xây dựng niềm tin của độc giả ngay từ ban đầu như thế đấy!). Cũng như trình bày trên, trong Đoạn trường tân thanh có rất nhiều hình thức thể hiện « cái tinh vi uẩn ảo » ; và đặc biệt còn có mối liên quan lẫn nhau về ý nghĩa giữa các câu thơ cách xa nhau, chúng tôi chỉ xin trình bày hai lĩnh vực trong nhiều điều đó : Từ câu thơ thứ 169, Nguyễn Du viết: “Dưới cầu nước chảy trong veo” Đến, câu thơ thứ 262 ông lại viết: “Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu” Như vậy: Kể cả nước : “ trong veo” lẫn “trong vắt” đều là nước trong suốt, không thấy gì lởn vởn. “Cái tinh vi” là tuy cùng cảnh vật như nhau, nhưng ở hoàn cảnh và hơn nữa là thời điểm khác nhau, ông đã chọn lựa dù chỉ một chữ “veo” hay “vắt” khác nhau- cũng rất tinh tế,chuẩn mực: Khi vừa chia tay nhau, Kim Trọng đi rồi, Thúy Kiều về sau, thì nước dưới cầu đó là “trong veo” có thể nhìn thấy rõ tận đáy dòng dù chỉ có một con tép nhỏ ( thế mà: “…thấy gì nữa đâu” chỉ có nước “trong veo” thôi). Khoảng một tháng sau (Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao – c251), lúc Kim Trọng trở lại đúng cảnh vật đó, vẫn dòng nước ấy thì ông lại viết là “trong vắt” mà là “ngâm” nữa chứ- thể hiện nước vẫn trong như thế từ lâu rồi- buồn tẻ… Còn vì hai câu thơ trên đặt cách xa nhau 93 câu, nên nhiều người chỉ nghĩ đến cái hay về tả cảnh ngụ tình của từng câu thơ, chứ ít ai để ý đến “cái uẩn ảo” về mối tương tác giữa hai câu thơ đó là: sự đồng điệu vô vọng “…thấy gì nữa đâu” của đôi trai gái chớm nở tình yêu. Về lĩnh vực khác, ở câu thơ thứ 1817: “Bây giờ đất thấp trời cao” Nếu xét về tự nhiên thì lúc nào đất chẳng thấp, trời chẳng cao, cứ gì “bây giờ”…Song, đó không chỉ là sự so sánh vai vế của Thúy Kiều với Hoạn thư, mà “cái tinh vi” tệ hại hơn là sự so sánh giữa Thúy Kiều với Thúc sinh, vô hình chung: từ chỗ bằng vai phải lứa, “đầu gối má kề”, tôn trọng lẫn nhau, đã thành chênh lệch giữa con ở với chủ nhà như “đất thấp trời cao”, nên: “Ăn làm sao nói làm sao bây giờ”… Và nếu xét đến câu thơ thứ 1877: “Bây giờ một vực một trời” Thì không kể nàng Kiều mà ngay cả chàng Thúc còn đớn mạt, tồi tệ hơn nữa là: so với Hoạn Thư thậm chí lại còn như vực sâu với trời cao.- Đó cũng là “cái tinh vi uẩn ảo” . “Cái tinh vi uẩn ảo” trong Đoạn trường tân thanh lại càng bộc lộ hơn nữa ở nghệ thuật phục bút của Nguyễn Du, đó là: Ở câu thơ thứ 92: “Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương” -Thì: “cái tinh vi” của sự chuyện này ở chỗ Nguyễn Du đã thâm nhập thực tế sâu sát nên ông biết rằng: vì lí do này khác- như xem thầy địa lí rồi để mộ, hoặc do hoàn cảnh khó khăn tiện đâu chôn đấy. v.v. ,nên trong một dòng họ, có những ngôi mộ cách xa nhau hàng một vài cây số; thậm chí ngày nay vẫn còn thấy có ngôi mộ ở ruộng lúa (cũng xin phép mở ngoặc thưa rằng : biết được thực tế này vì- là đích tôn nên hồi nhỏ, tôi phải theo ông nội đi tảo mộ lội bì bõm rất khổ sở hết ruộng lúa này đến leo bờ kia ; còn hiểu được những ý tứ thơ ở Đoạn trường tân thanh là do “chầu rìa” nghe ông tôi, cụ sinh năm 1899- là nhà nho được dân địa phương gọi là thánh sống ở Hải Minh,Hải Hậu,Nam Định-(cụ mất năm tôi 27 tuổi) cùng đàm luận về Đoạn trường tân thanh với các cụ từ Nghệ An, Thanh Hóa đến, các cụ chỉ có ổi xanh để nhắm rượu thôi!). …Khi đi thanh minh không ai đếm có bao nhiêu ngôi mộ để mang bấy nhiêu nén hương mà thường mang theo dăm, bảy nắm hương, thẻ hương. Nghĩa địa xưa thì xa vắng, mông mênh…, ở đấy không có ai bán vàng hương như ngày nay, vì thế sợ sớm hết hương nên đến những ngôi mộ đầu họ thường thắp đúng thông lệ là một hoặc ba nén hương. Tới ngôi mộ cuối còn thừa bao nhiêu hương thì cắm nốt, không ai mang về; do đó, tuy không có trong văn cảnh, song từ thực tế thời xưa, có lẽ Nguyễn Du đã ngầm chỉ ra rằng: chị em Thúy Kiều đã tỉa bớt hương ở các ngôi mộ đó, gần đấy, mang cắm vào mả Đạm Tiên. Đó là “Hương thừa” ở “Sẵn đây”. (Nguyễn Du còn tinh vi nêu rõ chị em Thúy Kiều đã dan tay ra về, vì thế khi đến mả Đạm Tiên là cuối bãi tha ma thì đã hết hương để thắp; và nữa vì mộ Đạm Tiên ở bên đường dễ bị mưa nắng bào mòn, trôi vẹt đất, lại do trước kia vùi nông mà không có người đắp hàng năm nên thấp “sè sè”, người đi tảo mộ không nhận ra mộ đó, cứ dẫm đạp lên thành thử cỏ ở đây bị úa vàng). -Còn: “cái uẩn ảo” là cách xa câu thơ trên 124 câu, ở câu thơ thứ 216, Nguyễn Du lại viết : “Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây” Một người rất cẩn trọng, “kính tâm” thì đâu có phải ông không biết rằng với người đã khuất cần tôn kính, sao không viết là hương thơm, hay ít ra để huyền ảo thì câu thơ đó cũng nên viết là: Hương còn phảng phất ra vào đâu đây. Thế mà ông lại gọi là “hương thừa’. Để hiểu rõ mục đích sâu xa, thâm thúy này của Nguyễn Du là muốn nêu bật nỗi thương đau của người kỹ nữ cả phần xác lẫn phần hồn với tâm linh thì lại phải đọc thêm các câu thơ trước đó nữa.- Ở các câu 57, 58: “Sè sè nấm đất bên đường Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh” có nghĩa là mả của Đạm Tiên vì không có ai đắp nên đáng thương quá gần như mất mộ. Ở các câu 71,72: “Buồng không lạnh ngắt như tờ Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh” như thế là: nỗi thương tâm vô hạn của người kĩ nữ cô độc không có ai chăm sóc bên giường bệnh, khi mất cũng không có ai biết từ lúc nào ( đấy là: còn có sự may mắn hãn hữu mà Đạm Tiên đã được người vu vơ lo liệu chôn cất- tình tiết như bản gốc, nhưng thê thảm hơn). Ở các câu thơ 78, 79, 80: « Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa Trải bao thỏ lặn ác tà Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm”. Lại càng não ruột, đau lòng vì mộ nằm “trơ thổ địa” với đất trời cỏ dại, ngay ngày thanh minh cũng không có ai dòm ngó . Ở các câu thơ thứ 87, 88: “Sống làm vợ khắp người ta Hại thay thác xuống làm mà không chồng”. Thì : lúc sống ai cũng như là chồng, nhưng khi chết không một ai đến nhận vợ, cảnh này lại càng tẻ lạnh, xót thương, ai oán… Không những thế, thời xưa những người kĩ nữ không chỉ bị họ hàng khinh ghét, xa lánh, mà dân tình còn cay độc nguyền rủa kể cả lúc sống lẫn khi đã chết là “cô độc, cô quả” rất đau xót. Đã thế với quan niệm tâm linh nặng nề của người đời xưa lại càng khổ tâm hơn là: đến nỗi ngày hội thanh minh ở những ngôi mộ khác, có nhiều người thân tới viếng: “Dập dìu tài tử giai nhân” với tràn trề: “Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” còn ở mả Đạm Tiên thì lạnh lẽo không có lấy dù chỉ một nén hương tử tế, may nhờ chị em Thúy Kiều “kiếm” ở “sẵn đây” mấy nén “hương thừa”. Như vậy: Cả hương “kiếm” được ở “sẵn đây” và cả mùi hương tỏa ra từ bóng ma Đạm Tiên khi Thúy Kiều mơ thấy đều là “hương thừa”. Điều “uẩn ảo” này là tiếng chuông nhân đạo sâu sắc và rất sâu xa của Nguyễn Du rung lên cảnh báo về thân phận đau khổ của những cô gái làm nghề “bán hoa” kể cả lúc sống lẫn khi chết, nhất là sự chê trách về tâm linh của người đời xưa (ông đã nâng dần cung bậc thương đau…). Kính thưa các quí vị. Một tình tiết khác nói về giá cả mua bán Thúy Kiều thì “cái tinh vi” của Nguyễn Du là vì viết cách xa: 36 và 217 câu nên ít người để ý đến, ở câu thơ thứ 612, ông đã thông báo trước rằng: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi” nhưng “cái uẩn ảo” ông tạo nên ở các câu thơ (648 và 829, 830) như sau: Câu thơ thứ 648: “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” (có nghĩa là Mã giám sinh đã đồng ý mua Thúy Kiều với giá 400 lạng vàng rồi, sau khi hắn mặc cả cò kè, cân nhắc kĩ càng như ở các câu thơ thứ 639, 640, 641, 642, 647 vv). Song ở hai câu thơ thứ 829, 830 thì ông lại viết là: “Hẳn ba trăm lạng kém đâu Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời” (như thế lại chính giám sinh họ Mã đã tự nhủ chỉ bỏ tiền mua Thúy Kiều có 300 lạng thôi, ít hơn hẳn 100 lạng, mới lạ chứ). Vậy liệu Nguyễn Du có nhầm lẫn không?- Xin thưa rằng một người cẩn trọng như ông thì không bao giờ có chuyện đó. Để sáng tỏ điều này, ở đây xin nêu tiếp “cái tinh vi” của Nguyễn Du rằng- ông hiểu rất rõ tâm lý xã hội với thực tế cuộc sống là : Vì vừa mới từ Lam Kiều đến Lôi Châu vẫn còn “lạ nước
  16. Nguyễn Trần văn vị Nhiên Hương 08/08/2014 lúc 5:54 Chiều #

    Vì vừa mới từ Lam Kiều đến Lôi Châu vẫn còn “lạ nước lạ cái”, Mã giám sinh đã đồng ý mua Thúy Kiều với giá 400 lạng vàng do hắn tự so sánh với các “món hàng” khác là quá rẻ rồi.
    Nhưng nào hắn đã trả tiền ngay đâu mà mới chỉ đưa mảnh giấy viết làm tin:
    “Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi” (câu 650)
    Trong thời gian làm thủ tục vu quy thì lúc này họ Mã đã quen biết rồi nên lần mò, hỏi dò thấy rằng chỉ cần 300 lạng vàng là chuộc được Vương ông, vì thế hắn chỉ trả có vậy mà thôi.
    Lại nữa, “cái uẩn ảo” mà Nguyễn Du muốn nêu bật lên về phẩm giá “người ba đấng, của ba loài”, là:
    -Bản chất của con buôn loại Mã giám sinh thì gian giảo, sảo trá, sợ hớ, lật lọng, bắt bí, vô nhân đạo kể cả với hoàn cảnh người bị hoạn nạn, miễn sao hắn được nhiều lãi. Còn:
    -Bản chất gia đình nhà nho Vương ông là “trọng nghĩa khinh tài”, dù trong chốc lát mất đi hàng trăm lạng vàng vẫn cam chịu, miễn sao cứu được người thân…
    Và nữa- Ở câu thơ thứ 586:
    “Này ai đan dập giật giàm bỗng dưng”
    Thì “cái tinh vi” là Nguyễn Du đã tìm hiểu biết : dân chài đã dùng cái bẫy cá đặt sát đáy sông cho thóc thối, cá vào ăn bị sập; và cái giàm là đòn ống lùa cá tôm vào dậm để bắt.
    Về“cái uẩn ảo”- ông đã chỉ ra rằng: bọn quan lại đã bẫy và lùa dân lành vào tội vạ để tống tiền.
    Kính thưa các quí vị… (7Kết luận:khảng định ý nghĩa ĐTTT)
    Còn rất nhiều, rất nhiều “cái tinh vi uẩn ảo” trong Đoạn trường tân thanh mà chúng tôi chỉ mới viết được hơn 20 bài; Song hiện nay nỗi băn khoăn nhất lại là:
    …Đã 90 năm qua, điều xót xa, rớm máu con tim, dãi bày thống thiết đến tức thở, đứt hơi của một danh nhân cứu tinh trong tứ trụ tri thức Việt Nam thế kỉ thứ 20 học giả cao thâm Phạm tiên sinh đã nêu nên giá trị cao quí độc nhất vô nhị ở nước ta của Đoạn trường tân thanh, vẫn còn vang vọng:
    “ Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển nếu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì, văn chương mình chỉ độc có một quyển vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư, Phúc âm của cả một dân tộc ví lại khuyết nốt thì dân tộc ấy đến thế nào?
    Than ôi! Mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ; sửng sốt, rụng rời tưởng như hòn ngọc ở trên tay buông rơi xuống đất tan tành vậy” . Vì như thế :
    … Chúng tôi xin mạo muội kính cẩn thưa rằng: cũng như nhiều người đã nêu, cho tới nay và chưa biết đến bao giờ, đất nước ta mới có được một tác phẩm vĩ đại để đời, soi sáng như thế trong thiên hạ; vì vậy, nếu chúng ta không tỉnh ngộ trước lời cảnh báo bất hủ, như những hồi chuông vang dội rung lên thôi thúc của tiền nhân với sự bức xúc, với lời lẽ khúc triết, day dứt đó; nếu nhà nước và nhân dân không cùng làm, đoàn kết lại, khi ngày nay trình độ dân trí đã cao vượt bậc, không gìn giữ phát huy giá trị cao quí của áng văn chương trác tuyệt vô giá, có một không hai ấy của dân tộc ta, thì liệu có tội với tiền nhân và con cháu muôn đời chăng?
    Hội Kiều học Việt Nam với đúng vai trò cao cả, là ngọn cờ tiên phong, là lương tâm và danh dự, là bó đuốc soi đường cho chúng ta “chung lưng đấu cật” không chỉ vì Đoạn trường tân thanh tuyệt đỉnh và Nguyễn Du vĩ đại…,mà còn vì sự phát triển, tiến bộ của nền văn học, văn hóa nước nhà lâu dài…
    Phải chăng: -Muốn giữ gìn phát huy cao độ sự trong sáng của tiếng Việt, thì:
    -Cần khai thác, vận dụng triệt để chữ nghĩa tinh túy:“cái hay”,“cái đẹp” của Đoạn trường tân thanh… góp phần.
    Thay cho lời kết, để khẳng định những điều mà học giả Phạm Quỳnh nêu cách đây đã gần một thế kỉ, tưởng như lộng ngôn, cực đoan, nhưng qua thời gian quá dài kiểm nghiệm, thì đó lại là sự tiên đoán về một chân lý vĩnh hằng, là:
    Ngày nay, không những Đoạn trường tân thanh còn, mà lại còn vang lừng danh tiếng không chỉ trong nước mà ngay cả trên văn đàn thế giới;
    (Không chỉ Đoạn trường tân thanh còn, tiếng ta còn, mà các loại hình văn hóa, văn nghệ khác như: Ca trù, Dân ca Quan họ, Hát xoan, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hội gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội còn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới).
    …Tuy đại diện giai cấp phong kiến chỉ biết giá trị cao quý,vĩnh hằng của Đoạn Trường Tân Thanh mà suy luận về sự trường tồn của đất nước ta, chứ không làm được cách mạng giải phóng dân tộc trước vô vàn khó khăn rất nan giải mà họ bất khả kháng, duy chỉ có Bác Hồ kính yêu và Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua bao thác ghềnh, chống thù trong giặc ngoài đi đến thắng lợi vĩ đại hoàn toàn là- độc lập, thống nhất đất nước, nên: Ngày nay, nước ta không những còn, mà còn nêu cao ngọn cờ cách mạng giải phóng dân tộc vẻ vang khắp năm châu bốn biển, có uy tín lớn lao trên trường quốc tế, được bè bạn khắp nơi quí trọng. Vì vậy:
    Chúng tôi xin phép được gói gọn điều bất hủ của học giả Phạm Quỳnh đã ca ngợi thiên tài Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh như sau:
    Một nước không thể không có quốc hoa
    Truyện Kiều là quốc hoa của ta.
    Một nước không thể không có quốc túy
    Truyện Kiều là quốc túy của ta.
    Một nước không thể không có quốc hồn
    Truyện Kiều là quốc hồn của ta.
    Truyện Kiều còn tiếng ta còn
    Tiếng ta còn nước ta còn.
    Phải chăng đó là hiện thực hôm nay và chân lý muôn đời.
    Dàn khoan HD 981 của Trung Quốc ở Hoàng Sa nước ta, hay bất kỳ trò trống gì gì đi nữa, cũng chỉ là nhất thời mà thôi.
    Kính thưa hương hồn cụ Nguyễn Tiên Điền:
    “Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
    Phải chăng, mới chỉ 195 năm, sau ngày cụ vĩnh biệt “cõi người ta”, nơi suối vàng cụ không phải chờ đợi quá lâu đến hơn 300 năm, mà hôm nay đây, hậu sinh chúng con không những hiểu rõ nội dung và nghệ thuật tuyệt đỉnh cụ đã ban tặng, mà điều rất đáng kể, có lẽ đúng tâm tư của cụ là đã thấm nhuần những “cái hay”, “cái đẹp”, “cái tinh vi uẩn ảo” thần kì của cụ viết lên trong Đoạn trường tân thanh… chúng con khóc thương cụ rất nhiều, rất nhiều- hơn cả khi cụ đã thương khóc nàng Tiểu Thanh; chúng con không chỉ khóc thương một thiên tài làm rạng danh tổ quốc trên văn đàn thế giới mà còn thương khóc vì sung sướng quá khi hiểu được cái “chân lý nghệ thuật” cao thâm của cụ.
    Đúng như ước muốn của cụ lúc sinh thời và còn sớm hơn rất nhiều (hàng hơn một thế kỉ), hôm nay chúng con xin kính cẩn thắp nén hương thơm tưởng nhớ, tưởng niệm một thiên tài có một không hai vì nền văn học, văn hóa nước nhà, với một niềm tự hào,vinh quang cùng nhân loại.
    Chúng con xin kính cẩn cúi lậy trước vong linh cụ nhân ngày giỗ cụ thứ 195 rằng:
    Một trăm chín nhăm năm qua,
    Thế gian nay đã khóc òa nhớ thương…
    Tố Như, ôi!- với “Đoạn trường…”
    Để người muôn thuở vấn vương nàng Kiều!…
    Xin kính mời các quý vị đứng dạy dành một phút tưởng niệm trước bài vị cụ Thanh Hiên vĩ đại!
    Phút mặc niệm bắt đầu…
    Xin kính mời các quí vị an tọa.
    Một lần nữa chúng tôi xin kính chúc các quý vị cùng quý quyến An khang, Thịnh vượng, được mọi sự may mắn, tốt đẹp nhất…Và chúng tôi xin thành tâm nguyện là tín đồ ngoan đạo của đạo: Đoạn trường tân thanh-Nguyễn Du.
    Xin trân trân trọng cảm ơn!…

    Nguyễn Trần Văn vị Nhiên Hương. DĐ: 0986. 731. 481.

Bình luận về bài viết này