Lưu trữ | 9:31 Chiều

TRUNG QUỐC: BÙNG NỔ BẠO LỰC ĐANG TỚI GẦN – BS

7 Th12

Posted by basamnews on December 7th, 2013

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)

Thứ Tư, ngày 04/12/2013

TTXVN (Paris 29/11)

Từ 9-12/11, 376 ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã họp Hội nghị toàn thể với mong muốn tìm ra một hướng cải cách sâu rộng “chưa từng có tiền lệ” cho lĩnh vực kinh tế – xã hội trong một thập kỷ tới. Đó là nhũng cải cách về sở hữu đất đai, hệ thống tài chính ngân hàng, quan hệ tài khóa giữa chính quyền trung ương và địa phương, tự do hóa thương mại, giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, giảm mệnh lệnh áp đặt với nền kinh tế và cuối cùng là kế hoạch chống tham nhũng… Tuy nhiên, báo Le Monde ngày 20/11 có bài viết dưới đầu đề “Trung Quốc: bùng nổ bạo lực đang tới gần” cho rằng lấp ló đằng sau các chủ trương cải cách này là nỗi lo sợ mơ hồ về những biến loạn diện rộng trong xã hội Trung Quốc, nội dung như sau:

 

Chủ tịch Tập Cận Bình đã đọc “báo cáo công tác” trước toàn thể hội nghị, trong đó có một số câu chữ rất mâu thuẫn, chẳng hạn: “Chức năng của thị trường có vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn tài nguyên”, nhưng “chúng ta phải duy trì vai trò thống trị của hệ thống sở hữu tập thể và trao một vai trò cho nền kinh tế chịu sự chỉ đạo của nhà nước.”

Lý luận thì có nhiều nhưng tóm lại, bất luận thế nào thì Trung Quốc cũng cần “duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng” và điều này phải bao trùm tất cả. Thế nhưng lấn át mọi chương trình cải cách được thông qua, dường như kết quả nổi bật nhất của Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 là việc thành lập một ủy ban mới đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất, vừa phụ trách an ninh trong nước vừa hoạch định chính sách ngoại giao, có tên gọi là “Ủy ban An ninh Quốc gia”. Rõ ràng đây là một sự theo đuổi chính sách mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra năm 1978 mà không có bất cứ sửa đổi lớn nào: cải cách kinh tế gắn chặt với đàn áp chính trị mạnh mẽ hơn.

Tại sao phải thành lập một ủy ban mới như vậy trong khi hệ thống nhà nước Trung Quốc đã được trang bị đầy đủ các bộ Tư pháp, Quốc phòng, Công an, rồi các lực lượng cảnh sát và cảnh sát vũ trang và hàng loạt công cụ trấn áp khác? Đó là bởi vì nỗi lo sợ đang thực sự thống trị ở mọi thang bậc cao nhất trong bộ máy cầm quyền. Các lãnh đạo Trung Quốc lo sợ một sự bùng nổ xã hội không thể kiểm soát và đây chính là lý do khiến Bắc Kinh luôn phải đổ tiền của vô tội vạ cho nhiệm vụ “duy trì ổn định”, đến nỗi nhiều người phải đặt câu hỏi kẻ thù thực sự duy nhất của Đảng có phải là toàn thể nhân dân Trung Quốc hay không. Trên thực tế, cũng có một thiểu số cán bộ có ảnh hưởng mong muốn được chứng kiến những chương trình cải cách trị thực sự trong Đảng. Tiêu biểu cho mong muốn cởi mở này là Hồ Đức Bình, con trai trưởng của Hồ Diệu Bang, một nhân vật mà cái chết của ông năm 1989 đã gây ra một phong trào phản kháng dân chủ lớn nhất trong 40 năm. Những người xung quanh ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải bắt đầu tiến hành phân bổ lại các nguồn lực và của cải, đồng thời đặt nền tảng cho một nền dân chủ thực sự chứ không phải “thứ giả hiệu” kiểu “nền dân chủ mang đặc sắc Trung Quốc” mà người tiền nhiệm của Tập Cận Bình là Hồ cẩm Đào vẫn đề cao.

Nhưng giai đoạn thực hiện cải cách chính trị có thể   đã trôi qua. Nói như nhiều người dân Trung Quốc, “nếu Đảng cải cách thì Đảng sẽ nguy kịch. Nhưng nếu Đảng không cải cách thì đất nước sẽ nguy khốn”. Nhưng dù Trung Quốc không theo đuổi chương trình vận động dân chủ theo gương các nước cộng sản cũ ở Đông Âu thì tại nước này đã nổi lên một tầng lớp thượng lưu luôn lo sợ bị mất những gì họ đã đạt được, trong khi đó tầng lớp nghèo khổ luôn hy vọng sẽ đạt được những điều kiện sống tốt đẹp hơn. Những mầm mống bất ổn này ngày càng phát triển.

Trong khi đó, theo một nghiên cứu được công bố trong Báo cáo Hurun năm 2012, hơn 60% người Trung Quốc giàu có nhất đã di cư hoặc đang làm các thủ tục cần thiết để di cư và hơn 85% trong số họ đã gửi con cháu tới học tại các trường tốt nhất ở nước ngoài. Và như vậy tình trạng phân cực trong xã hội chỉ có thể ngày càng trầm trọng.

Theo phương pháp thống kê Gini (chỉ số Gini) đánh giá mức độ bất bình đẳng xã hội dựa trên thang bậc từ 0 đến 1, và theo theo đó mọi số liệu cao hơn 0,4 đều là dấu hiệu dự báo biến loạn xã hội, chỉ số của Trung Quốc hiện đã lên gần 0,5 kể từ cuối năm 2012. Nếu căn cứ vào các chỉ số Gini, có thể nói biển loạn xã hội diện rộng ở Trung Quốc sẽ xảy ra trong nay mai… Điều này chắc chắn lý giải nỗi lo lắng thực sự của giới quân sự và các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện nay.

Trên thực tế, Chủ tịch Tập Cận Bình đang chịu một sức ép lớn từ các nhân vật lãnh đạo dưới quyền và từ chính hệ thống chính trị Trung Quốc. Các đề xuất mà Tập Cận Bình đưa ra khi mới nhậm chức cuối năm 2012, chẳng hạn việc xóa bỏ các trại cải tạo lao động đã không thành công. Một số tỉnh đã áp dụng quyết định này nhưng nhiều địa phương khác thì không, và không ai biết phần tiếp theo của câu chuyện ra sao…

Giới công chức và đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có quá nhiều thứ để mất nếu Đảng tiến hành cải cách chính trị. Hơn nữa, không ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu một thành viên nữa của ban lãnh đạo Đảng bị thanh trừng. Ví dụ trường họp Bạc Hy Lai, người lẽ ra đã được bước vào chốn thâm cung siêu an toàn của Bộ Chính trị nhưng đã bị kết án tù chung thân ngay trước Hội nghị Trung ương 3, đã cho thấy nhiều điều. Nếu nhân vật này không thành công trong việc áp đặt sức mạnh thì người kế nhiệm chắc chắn sẽ làm bằng được như vậy còn hơn là ngồi im chờ bị bắt và bỏ tù.

Ngày càng xuất hiện thêm các thông tin chính xác và không thể che đậy về của cải và sự giàu có của các nhà lãnh đạo và điều này tất yếu dẫn đến sự phẫn nộ ngày càng lớn trong xã hội. Do Bloomberg News đã đánh giá tài sản của gia đình Tập Cận Bình lên tới “khoảng 500 triệu USD”, trong khi New York Times đăng một bài viết công bố tài sản của gia đình cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo tổng cộng lên tới “ít nhất 2,7 tỉ USD”, nên các trang mạng bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc của hai phương tiện thông tin này đã bị chặn triệt để tại Trung Quốc.

Tác hại của nạn tham nhũng và tình trạng gia đình trị hiển nhiên đập vào mắt tất cả công luận. Phải giải thích thế nào về việc một nhân viên cảnh sát bình thường tại một khu phố ở Thượng Hải đã bị bắt với 2 triệu USD tiền mặt cất trong ngăn kéo? Có phải vì anh ta được công tác tại khu Tĩnh An, một nơi béo bở để có thể nhận những xấp tiền lo lót của rất đông doanh nghiệp Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Á khác?

Các vụ nổ và tấn công xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn, rồi ở Tân Cương và các địa phương khác chắc chắn chỉ là những bóng ma đầu tiên của một khủng hoảng xã hội trầm trọng. Khẩu hiệu của những người biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989, những người muốn đấu tranh “hòa bình, lý trí và phi bạo lực” có thể sẽ không còn phù hợp với hoàn cảnh của Trung Quốc hiện nay.

* * *

TTXVN (Hong Kong 1/12)

Theo “Đại Công báo ” (Mong Kong), ngày 16/11 đã xảy ra một vụ tấn công vào đồn cảnh sát tại thị trấn Serikbuya, huyện Bachu, thuộc thành phố Kashgar, khu tự trị Tân Cương làm 11 người thiệt mạng trong đó có 2 cảnh sát. Vụ tấn công thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận, đặc biệt trong bối cảnh tại Trung Quốc vừa xảy ra hai vụ việc liên quan đến khủng bố ở quảng trường Thiên An Môn và ở thành phố Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh ủy Sơn Tây. Nhà chức trách hiện chưa công bố các thông tin cụ thể liên quan tới vụ việc trên, song theo lôgích phân tích và kinh nghiệm phán đoán, đây là vụ tấn công khủng bố có liên quan tới các thế lực chủ nghĩa cực đoan trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc.

Xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau, cộng đồng quốc tế luôn quan tâm đến vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương, trong đó có quan điểm cho rằng Tân Cương đang đối diện với nguy cơ “Trung Đông hóa”. Mặc dù cách nói này có phần bi quan khi phán đoán tình hình tương lai, song từ thực tế có thể nhận định tình hình chống khủng bố ở Tân Cương tương tự như tình hình chống khủng bố ở Trung Đông. Theo tác giả bài viết (ông Mộc Xuân Sơn), cách so sánh này có ý nghĩa răn đe.

Thử nhất, các vụ khủng bố gia tăng, ý thức chống khủng bố đã lan tỏa từ tổ chức sang người dân. Từ đầu năm 2013, đã có 4 vụ việc tương tự kiểu tấn công khủng bố xảy ra trên lãnh thổ Trung Quốc, trong đó riêng khu vực Bachu đã xảy ra 2 vụ. Đáng chú ý là vụ tấn công khủng bố hồi tháng 4 với con số thiệt mạng lên tới 15 người. Đây chỉ là những vụ tấn công khủng bố được giới truyền thông tiết lộ, ngoài ra những vụ tấn công khủng bố khác do một số nguyên nhân như xuất phát từ lý do an ninh hoặc giới truvền thông không nắm được hay âm mưu tấn công khủng bố bị phá vỡ nên đã không được tiết lộ. Điều này cho thấy tình hình chống khủng bố ở Tân Cương nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trước đây. Ý thức chống khủng bố đã bắt đầu lan truyền từ giới chức trách sang quần chúng nhân dân. Có thể làm phép so sánh với bên ngoài, hiện nay các vụ tấn công khủng bố ở Trung Đông vẫn thường xuyên xảy ra với số lượng tương đối nhiều bất kể là ở Iraq, Ai Cập hay Saudi Arabia. Hoạt động dày đặc của các phần tử khủng bố cho thấy khả năng và tần suất hoạt động của chúng ngày càng lớn. Đối với toàn xã hội, sợi dây gắn kết chống khủng bố là điều kiện tất yếu đối với tất cả các cuộc đấu tranh chống lại thế lực này.

Thứ hai, yêu cầu có liên quan của thế lực khủng bố ngày càng “quốc tế hóa”. Các tổ chức khủng bố như Đông Thổ tuyên bố Trung Quốc “chiếm cứ” Tân Cương, làm “phai mờ” văn hóa dân tộc Duy Ngô Nhĩ nên yêu cầu thành lập quốc gia độc lập “Đông Thổ” để bảo vệ cái gọi là sự tôn nghiêm dân tộc. “Yêu cầu” công khai này tương đồng với rất nhiều thế lực khủng bố ở chỗ đã “quốc tế hóa”. Ví dụ, Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas lấy chiêu bài phản đối sự chiếm đóng của người Do Thái phát động tấn công đối với các công trình xây dựng, nhà ở của người Israel; Đảng Công nhân người Kurd Thổ Nhĩ Kỳ cũng đòi thành lập “Kurdistan” – một nhà nước riêng của người Kurd, nên đã liên tục gây ra các vụ tấn công vào các mục tiêu của Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.

Thứ ba, đặc điểm huấn luyện, hoạt động xuyên biên giới của chủ nghĩa khủng bố ngày càng rõ ràng. Tổ chức khủng bố AI Qaeda đã cấu kết với các thế lực chủ nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa khủng bố ở Tân Cương. Chúng đã tổ chức huấn luyện các phần tử Đông Thổ ở nước ngoài, sau đó xúi giục các phần tử này về nước tham gia “thánh chiến”. Tương tự, tổ chức Al-Qaeda cũng là nơi khởi nguồn của nhiều vụ khủng bố ở Trung Đông, thậm chí là căn nguyên sâu xa nhất của việc truyền bá chủ nghĩa khủng bố trên thế giới. Thứ tư, phương thức thông qua tấn công liều chết để đạt được mục đích của tổ chức khủng bố ngày càng gia tăng. Phương thức tấn công của chủ nghĩa khủng bố rất đa dạng, trong đó phương thức tấn công liều chết thường gặp ở khu vực Trung Đông. Thủ phạm tấn công liều chết thường là tín đồ bị chủ nghĩa cực đoan tẩy não về tư tưởng, có độ tuổi dao động từ vài tuổi cho đến vài chục tuổi, thậm chí một số phụ nữ trung niên cũng có thể trở thành những “góa phụ đen”. Khi Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas khống chế nhà trẻ ở dải Gaza, những đứa trẻ 5 tuổi bị truyền bá tư tưởng “thánh chiến”, được học cách làm thế nào để trở thành một “phần tử thánh chiến” đạt yêu cầu. Nhà chức trách Trung Quốc đã xác định “vụ tấn công vào cầu Kim Thủy ở Quảng trường Thiên An Môn hôm 28/10” là vụ tấn công khủng bố mang tư tưởng cực đoan do người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương lên kế hoạch. Vụ việc này rõ ràng mang tính chất của một vụ tấn công theo phương thức tự sát.

Thứ năm, thủ đoạn được tiến hành ở Trung Quốc giống hệt thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Thủ đoạn tiến hành tuyên truyền phá hoại nhằm phản đối Chính phủ của thế lực khủng bố ở Tân Cương rất giống với thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Chính phủ đều bị gắn mác phân biệt chủng tộc hoặc kẻ phản bội. Ví dụ, Đảng Công nhân người Kurd, bị các nước phương Tây coi là tổ chức khủng bố, cho rằng Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ thực thi chính sách tiêu diệt chủng tộc. Trong khi đó, tổ chức khủng bố Al- Qaeda khẳng định một vài thành viên của Tổ chức Anh em Hồi giáo có mối quan hệ mật thiết với các nước phương Tây nên cần phải bị tiêu diệt. Các phần tử khủng bố Đông Thổ lại tuyên truyền Chính phủ Trung Quốc là “thế lực phân biệt chủng tộc” xóa bỏ tôn giáo và thuộc tính dân tộc, nên đã ra tay sát hại không phân biệt quân nhân, cảnh sát hay dân chúng Duy Ngô Nhĩ.

Ông Mộc Xuân Sơn cho rằng tính chất của các vụ tấn công khủng bố ở Trung Quốc ngày càng có liên quan đến bên ngoài. Do đó, Trung Quốc có thể tìm hiểu và học hỏi sách lược chống khủng bố của các nước Trung Đông, nơi có kinh nghiệm chống khủng bố tiên tiến. Có thể coi Israel – một nước lớn về chống khủng bố là ví dụ điển hình. Cách làm của nước này về giáo dục chống khủng bố, ngăn chặn khủng bố, và các biện pháp chống khủng bố rất đặc sắc.

Về giáo dục chống khủng bố, Israel tích cực bồi dưỡng ý thức an ninh đối với toàn thể dân chúng, đồng thời tăng cường tính linh hoạt của chính sách chống khủng bố. Israel có 75% là người Do Thái, 20% công dân gốc Arập và 5% cư dân thuộc các tộc người và tín ngưỡng khác, do đó nhiệm vụ khó khăn, quan trọng nhất trong vấn đề giáo dục chống khủng bố chính là phân biệt chủ nghĩa khủng bố và tư tưởng của dân thường; đồng thời các chính sách thường ngày của Chính phủ phải nghiêng về người dân không phải gốc Do Thái. Ví

dụ, cách đây không lâu, vị trí Lữ trưởng “Lữ đoàn Golan” phụ trách an ninh biên giới phía Bắc Israel do một người Druze (một nhánh của người Hồi giáo Arập) đảm nhận. Trong lịch sử nước này, đây là lần đầu tiên một vị trí cấp cao trong quân đội không do người Do Thái nắm giữ, điều này cho thấy thái độ yên tâm của Chính phủ trong việc giao cho những tộc người thiểu số phụ trách vấn đề về an ninh biên giới quốc gia. Ngoài ra, cuộc sống, sự đãi ngộ của những công dân không phải là người Do Thái tốt hơn rất nhiều so với những người cùng tộc sinh sống ở ngoài lãnh thổ Israel. Ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hóa, tính dân tộc… vẫn được duy trì trọn vẹn, do đó tư tưởng hòa bình, phản đối tấn công khủng bố tồn tại phổ biến trong các tộc người thiểu số ở Israel. Họ ít khi bị những kẻ khủng bố lợi dụng, ngược lại trở thành lực lượng phát triển xã hội và xây dựng an ninh công cộng.

Ngoài ra, ý thức chống khủng bố ở Israel đã thâm nhập vào từng tế bào, mạch máu của xã hội. Ví dụ, các công ty hàng không Israel bắt buộc phải tiến hành mở va-li, hành lý để kiểm tra đối với hành lý xách tay hoặc hành lý ký gửi của hành khách khi nhập cảnh, thậm chí đối với các hành khách và hành lý xuất cảnh cũng không có ngoại lệ; tại cửa vào các địa điểm công cộng ở Israel như trung tâm thương mại, công viên, bến xe, thậm chí siêu thị đều lắp đặt máy quét an ninh.

Về ngăn chặn khủng bố, Israel cân nhắc chung các biện pháp mang tính phòng ngừa như phân tích tin tức tình báo chống khủng bố, quan tâm tình hình chống khủng bố, chặn các tin tức chống khủng bố…, và coi đó là những trọng tâm hàng đầu của công tác chống khủng bố. Tuy nhiên, đây cũng là nhũng vấn đề mà các thế lực khủng bố lớn nhỏ từng theo dõi, bao vây, thậm chí công khai uy hiếp Israel trong suốt hơn 10 năm nay; song cũng là nguyên nhân vì sao Israel ít xảy ra tấn công khủng bố.

Đặc sắc “chống khủng bố mang tính ngăn chặn” của Israel ở chỗ không chí tiến hành phân tích tin tức tình báo cơ mật của nội bộ tổ chức khủng bố, mà quan trọng hơn là tiến hành giám sát mạng Internet, tiến hành phân tích ý kiến và thái độ của công chúng đối với chủ nghĩa khủng bố. Chính phủ vừa có thể phát hiện được động cơ, mục tiêu của những kẻ khủng bố từ các tư liệu, băng ghi hình, bài phát biểu cũng như hoạt động tuyên truyền cơ bản nhất của các tổ chức khủng bố; đồng thời đưa ra những phán đoán về năng lực và hành động của chúng; ngoài ra, có thể tiến hành tái phân tích và hợp tác quốc tế để ngăn chặn, cảnh báo hoạt động khủng bố từ các tin bài và góc độ quan tâm khác của giới truyền thông và các quốc gia khác về chúng. Từ đó có thể nâng cao tỉ lệ ngăn chặn các vụ việc khủng bố. Ở góc độ biện pháp chống khủng bố, Israel kết hợp chặt chẽ các biện pháp như pháp luật, hành chính và quân sự. Israel đã sớm ban hành Luật chống khủng bố. Bộ luật này thậm chí đưa nhân viên các ngành nghề đặc thù như cán bộ biên phòng, lái xe taxi… những người bị phần tử khủng bố lợi dụng một cách tình cờ vào danh sách có khả năng bị pháp luật trừng trị. Từ đó tăng cường ý thức chống khủng bố của toàn xã hội.

Trong góc độ hành chính, Israel đã thành lập ủy ban an ninh quốc gia. Ủy ban này không phải cơ quan làm việc có thực quyền, mà là cơ quan cố vấn của nội các. Trên thực tế, Ủy ban an ninh quốc gia cố vấn cho Chính phủ về vấn đề chống khủng bố hoặc an ninh quốc gia. Cơ quan này là nơi điều phối công việc chống khủng bố của các bộ ngành. Thành viên của ủy ban có lúc được gọi là “nội các an ninh” bởi vì khi Thủ tướng triệu tập Hội nghị, các nhân viên liên quan thảo luận vấn đề và mệnh lệnh được truyền xuống cấp dưới để nhanh chóng thực hiện. Ngoài ra, Israel còn có hai cơ quan đảm bảo an ninh trong, ngoài nước là Mossad (Cơ quan tình báo đối ngoại) và ISA (Cục An ninh quốc gia) sẽ phân công, phối hợp giải quyết, xử lý các vụ khủng bố đột xuất, bất ngờ.

Ngoài ra, kinh nghiệm chống khủng bố của quân đội Israel cũng hết sức phong phú. Israel không chỉ có lực lượng chống khủng bố, trường chống khủng bố chuyên trách mà vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này cũng vô cùng chặt chẽ. Ví dụ, Israel thường xuyên tổ chức diễn tập chống khủng bố với Mỹ và các nước châu Âu. Bên cạnh đó, Israel còn tổ chức huấn luyện các hoạt động có liên quan đến chống khủng bố với Trung Quốc. Mùa Hè năm 2013, các sĩ quan quân đội Israel đã đến trường quân sự Bắc Kinh, Trung Quốc để tiến hành giao lưu, hợp tác. Trung Quốc và Israel cũng ký kết ngầm về hợp tác trong vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương. Năm ngoái, trong chuyến thăm Israel của Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Trần Bính Đức, hai nước cũng đã đạt được mục đích hợp tác huấn luyện chống khủng bố./.

 

Nhân 85 năm Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế: Nhân Quyền – Khát Vọng Ngàn Đời – BS

7 Th12

Posted by basamnews on December 7th, 2013

Nguyễn Thanh Giang

E

mmanuel Kant (1724 – 1804), người đã từng có đóng góp lớn vào việc nghiên cứu sự vận hành của Trái đất, sự tồn tại của Đại Thiên hà vũ trụ nằm ngoài Thiên hà chúng ta, lại cũng chính là nhà bác học rất thích nhắc đi nhắc lại câu ngạn ngữ:

“Hãy thực hiện công lý đi, cho dù thế giới có tiêu vong”.

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền do Liên Hiệp Quốc công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948 mở đầu rất thống thiết:

 

“Sự xâm phạm và coi thường nhân quyền dẫn đến các hành động dã man xúc phạm tới lương tâm của nhân loại, và việc xây dựng một thế giới trong đó con người không còn phải chịu sự khủng bố và sự khốn cùng, được tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng là khát vọng cao nhất của con người.

Nhân quyền phải được pháp luật bảo đảm, để mỗi người không còn bị buộc phải – khi không còn cách nào khác – nổi dậy đấu tranh chống lại sự tàn bạo và áp bức”.

Ngày 25-6-1993, hội nghị thế giới về nhân quyền

“Trịnh trọng thông qua Tuyên ngôn Vienna và Chương trình Hành động dưới đây:

Hội nghị thế giới về nhân quyền khẳng định lại cam kết trịnh trọng của tất cả các quốc gia là hoàn thành nghĩa vụ của họ về thúc đẩy sự tôn trọng ở khắp nơi, thực hiện và bảo vệ tất cả các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho mọi người phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc cùng các văn kiện khác liên quan tới quyền con người và luật pháp quốc tế…” vv…

Từ 1948 đến nay, sau Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền, Liên Hiệp Quốc đã ban hành tới 53 công ước và văn bản pháp lý quốc tế liên quan đến lĩnh vực quyền và tự do cơ bản của con người bao gồm các công ước về các quyền chính trị dân sự, công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội…Con người hằng khao khát, nhân loại đã dốc bao nhiêu trí lực nhằm tìm phương cách tốt nhất hiện thực hóa vấn đề quyền con người, nhưng chính Các Mác thì cho rằng nhân quyền tư sản là “quyền con người của chủ nghĩa ích kỷ” là “quyền lợi của thành viên xã hội thị dân”. Ông Lý Quang Diệu thì phỉ báng rằng:

“Vấn đề nhân quyền là mặt trái của đồng bạc trắng châu Á”.

Ông còn võ đoán:

“Người Nga không hề tin một chữ nào trong bản tuyên ngôn mà họ đã ký (tức tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền, 1948 – TG). Còn người Trung Quốc thì bấy giờ đang trong tình trạng hỗn loạn cực độ. Họ phải giả vờ ủng hộ nhân quyền và tự do gắn liền với nhân loại để tranh thủ viện trợ của Mỹ và đối phó với sự chống đối của những người cộng sản”. (1)

Ở Việt Nam, nhân quyền được quy kết vào quyền công dân. Điều 50, Hiến pháp Việt Nam 1992 ghi

“Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật”.

Một vấn đề rất thiết thân với con người lại bị chính con người đem ra chế tác, ngụy tạo, phỉ báng! Chẳng trách gì ở một chuồng thú trong thảo cầm viên tại thủ đô Lusaka, nước Zambia có treo tấm biển ghi: “Con vật nguy hiểm nhất thế giới”. Nhìn vào chuồng chẳng thấy gì hết ngoài hình ảnh của chính người đứng xem trong chiếc gương treo ngang mặt người.

Liệu thế giới có những giá trị chung về nhân quyền không? Liệu Việt Nam có nhất quyết phải bảo đảm những giá trị chung đó không?

Người viết bài này vốn chỉ quen khảo sát các trường Địa vật lý mà “ngoại đạo” đối với “các trường nhân văn” nên không hy vọng có thể luận đàm hay lý giải về một vấn đề to lớn như vậy mà chủ yếu muốn trình bày những nhận thức về một khát vọng của nhân loại và mong ước đất nước mình – với hàng triệu sinh linh khi ngã xuống trong suốt nửa thế kỷ qua đã tưởng vọng đến những giá trị cơ bản của nhân quyền thông qua các tiêu chí độc lập, tự do, hạnh phúc – sẽ phải hoàn toàn xứng đáng tận hưởng khát vọng đó.

1. Những Ý Niệm Về Nhân Quyền

 

N

gày 4 tháng 7 năm 1776, Thomas Jefferson đã mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bằng sự khẳng định:

“Chúng tôi coi những chân lý sau đây là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có Quyền được sống, Quyền tự do và Quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Có lẽ đây là lần đầu tiên khái niệm quyền con người được chính thức công bố trên văn bản.

Bản tuyên ngôn khẳng định quyền con người là hiển nhiên, vốn có, là không thể xâm phạm. Nó xuất hiện và tồn tại cùng xã hội loài người; không phải vũ đoán hoặc do ý chí áp đặt mà do “tạo hóa” sinh ra. Các triết gia thời cổ đại từng cho rằng các quyền tự nhiên là tài sản của tất cả mọi người. Trước đây 36 thế kỷ, Hammourabi – người sáng lập ra Babylone – quan niệm “Công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh làm hại người yếu”. J.J. Rousseau, mở đầu cuốn “Khế Ước Xã Hội” với lời tuyên bố “Con người sinh ra đã là tự do”.

Trong lịch sử phát triển, quan niệm quyền con người là khả năng bẩm sinh và có tính thực tế đã tạo sức mạnh cho con người vươn tới tự do và bình đẳng. Xã hội chiếm hữu nô lệ rung chuyển và sụp đổ do các cuộc khởi nghĩa nhằm giành lại quyền làm người của những người nô lệ bị chủ nô tước đoạt. Lúc đó ước nguyện cơ bản của quyền con người là quyền tự do chứ chưa có sự thôi thúc giành giật lợi quyền kinh tế. Khi giai cấp tư sản giương ngọn cờ dân chủ, tự do, bình đẳng thì đã tập họp được cả xã hội nhất tề đứng dậy lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến xóa bỏ xã hội thần dân, xác lập xã hội công dân.

Trên cơ sở quan niệm rằng con người là sự trừu tượng hóa của tất cả các thực thể cá nhân; coi con người với tư cách chủ thể của nhân quyền, là các cá nhân đã được trừu tượng hóa và siêu thoát khỏi những ràng buộc của kết cấu chính trị, xã hội như: màu da, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch…, Tuyên ngôn độc lập 1776 nêu rõ quyền con người gồm ba nội dung chủ yếu: quyền sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Các quyền đó bình đẳng đối với từng cá nhân, cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, vị thế xã hội… Bình đẳng là khả năng bẩm sinh của con người. Mỗi con người đều được tạo hóa phú cho các khả năng về cảm xúc, giao tiếp, tư duy và nếu có sự phát triển bình thường về thể chất thì đều có quyền được hưởng các quyền cơ bản của nhân quyền. Sự bất bình đẳng trong các khả năng thụ hưởng quyền con người chẳng qua là do sự phát triển phái sinh, giả tạo gây ra bởi xã hội.

Theo sự phân loại chung thể hiện trong các công ước quốc tế thì nhân quyền bao gồm hai lĩnh vực.

* Thuộc lĩnh vực các quyền dân sự và chính trị gồm có:

1)              Quyền được sống và không bị tước đoạt sinh mạng một cách độc đoán.

2)              Quyền có an ninh cá nhân, không bị bắt giữ vô cớ hay bị bỏ tù mà không xét xử công minh.

3)              Quyền không bị đối xử độc ác và không bị tra tấn kể cả khi bị bỏ tù.

4)              Quyền bình đẳng trước pháp luật và không bị áp dụng phép hồi tố bất lợi.

5)              Quyền tự do cư trú và đi lại.

6)              Quyền sở hữu tài sản.

7)              Quyền bất khả xâm phạm đối với đời sống riêng tư, gia đình, nhà “, thư tín.

8)              Quyền được bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm.

9)              Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.

10)          Quyền tự do lập hội và hội họp.

11)          Quyền được khiếu nại, tố cáo bất cứ cá nhân, tổ chức nào.

12)          Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

13)          Quyền tự do biểu tình.

14)          Quyền được tham gia quản lý xã hội (bầu cử, ứng cử…).

* Thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa gồm có:

1)             Quyền có việc làm và được hưởng thụ thỏa đáng.

2)             Quyền được chăm sóc về y tế.

3)             Quyền được hưởng nền giáo dục, trước hết là giáo dục tiểu học miễn phí.

4)             Quyền được có nơi cư trú.

5)             Quyền được sống đủ cho bản thân và gia đình.

6)             Quyền được sống trong môi trường không ô nhiễm, độc hại.

v.v…

Chủ nghĩa nhân bản xuất phát từ nhân tính, coi tự do, bình đẳng, bác ái là thuộc tính con người. Lấy con người làm điểm xuất phát và cũng là đích cuối cùng, là giá trị cao nhất trong mọi giá trị, nhân quyền được xếp cao hơn chủ quyền, nhân quyền không có biên giới quốc gia.

Tuy nhiên chủ nghĩa Mác không thừa nhận con người trừu trượng, con người khái quát, nên cũng không thừa nhận khái niệm nhân quyền trên. Mác từng nói:

“Con người quyết không phải là cái trừu tượng bám đậu ngoài thế giới. Con người chính là thế giới của con người, chính là quốc gia, xã hội”.

Những người xuất phát từ chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ xem nhân quyền là quyền lợi của con người với tư cách là thành viên xã hội, do đó, nhân quyền mà họ được hưởng dù nói về tính chất, nội dung, hình thức cùng những bảo đảm về tư pháp đều do chế độ xã hội quyết định. Họ cho rằng nhân quyền chỉ là sự giới định và thừa nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội. Có hay không có tư cách này tức là có hay không có quyền lợi; tư cách bằng nào thì quyền lợi bằng nấy.

Trong khi Jan Martenson, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người đã khẳng định:

“Trong nhân quyền không có công dân hạng hai, và không có ai sinh ra để phải ngồi đằng sau cỗ xe nhân quyền” (2)

thì thậm chí có nhà lý luận Trung Quốc còn coi

“Nhân quyền trước hết là nhân quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rất rõ rệt. Ban đầu sự nảy sinh nhân quyền có cùng một quá trình lịch sử với sự sản sinh giai cấp….

Sự thừa nhận của xã hội đối với người nào đó, trước hết phải coi người đó là thành viên của giai cấp nào…. Nhân quyền của giai cấp thống trị là sự hạn chế đối với giai cấp bị trị… Cho dù ngay trong nội bộ một giai cấp, nhân quyền của mỗi người đều là sự hạn chế đối với mọi người có quan hệ giao lưu với người đó… “. (3)

Những lý luận kiểu ấy dễ dàng trở thành nền tảng, thiết lập nên “cái nhân quyền” của giai cấp công nhân phải khác, và tất nhiên là hơn, nhân quyền của giai cấp nông dân, của tầng lớp trí thức. “Cái nhân quyền” của những người cộng sản phải là một đặc quyền. “Cái nhân quyền” của Pol Pot cho phép ông ta tàn sát hàng triệu đồng bào mình! “Cái nhân quyền” của Stalin trao sứ mệnh cho người ấy đày đọa, giết hại hàng vạn đồng chí mình! Thật là kinh khủng!!!

Ngay từ thời cổ đại người ta đã biết quan tâm đến quyền con người. Thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Antigone đã nói đến quyền không vâng lời trước Creon. Spartacus đã tuyên bố trước những người nô lệ về quyền chống lại áp bức.

Tiếc rằng trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, ở các nước XHCN đã tồn tại phổ biến tinh thần phủ nhận khái niệm quyền con người. Khi cực chẳng đã phải ngồi bàn thảo về một nhu cầu hết sức thiêng liêng và toàn diện này thì người ta lại thường nhấn mạnh sự ưu tiên của các quyền kinh tế – xã hội so với các quyền chính trị và tự do cá nhân. Họ xem các quyền chính trị và tự do cá nhân chỉ là những xa xí phẩm chưa cần thiết hoặc không cần thiết đối với quảng đại quần chúng. Ngay giữa hội nghị nhân quyền Vienna 1993, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Hoa Thu vẫn còn dóng dả:

“Đối với bất kỳ một nước đang phát triển nào, vấn đề phát triển kinh tế là quyền con người quan trọng nhất”.

Phải chăng người ta muốn dìm đầu con người vào cái máng ăn để quên hết mọi thứ khác? Thế rồi cứ vậy, nay họ cho thêm ít khô lạc, mai chút bột cá là phải tung hô Đảng muôn năm và Đời đời nhớ ơn lãnh tụ!

Dẫu vậy, việc đề cao quyền kinh tế xã hội chỉ càng làm cho họ càng thêm “hở sườn” cả về lý luận lẫn trong thực tế. Xét về mặt đời sống kinh tế thì các nước XHCN nói chung và Trung Quốc nói riêng đều đã giải quyết rất kém so với các nước Phương Tây.

Còn Việt Nam?

Vì sao cho đến bây giờ chúng ta vẫn còn là một trong hai mươi nước nghèo nhất thế giới? Cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay đã làm được gì?

Vì sao chúng ta không tập trung sách lược, chiến lược vào để giải quyết “vấn đề phát triển kinh tế là quyền con người quan trọng nhất” như quý vị nêu trên?

Thật ngạc nhiên khi nghe một nhà lý luận biện lý hùng hồn rằng:

“Chỉ có đồ ngốc mới tin rằng: Một người không có một tý gì ngoài cái mồm ra lại có quyền tự do ngôn luận giống như người có điện đài, tivi, báo chí và nhà xuất bản; một người không có một xu đút túi lại có quyền ứng cử ngang với người có thể tiêu hàng triệu, hàng chục triệu đồng để tranh cử; một người lang thang đầu phố lại có quyền bảo đảm an toàn thân thể ngang với người có thể thuê được cả vệ sỹ”. (4)

Làm sao lại có thể lộn sòng giữa nhân và quả, giữa phương tiện và sự thành đạt như vậy được. Cùng một điều kiện ban đầu nhưng ai cũng đã biết, mọi đối tượng khác nhau đều biến hóa khác nhau. Cũng như trong xã hội rồi có người làm thầy, làm thợ, làm vua, làm tôi nhưng Tạo Hóa chí minh, chí công thì chí ít cứ phải “nặn” cho mỗi con người đủ cả đầu mình, tứ chi và năm giác quan đã. Nhân quyền cũng vậy, tất phải có cái chung.

2. Thế Giới Cần Thống Nhất Hành Động

Vì Nhân Quyền

 

V

ào cuối thiên niên kỷ thứ hai này, thế giới, tự giác và không tự giác, đang xích lại gần nhau bằng tốc độ ánh sáng so với tốc độ máy hơi nước của những năm ra đời bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền 1789. Người ta không chỉ tự giác đập tan bức tường Berlin – một trong những vết nhơ chia rẽ trắng trợn nhất của nhân loại – mà, với sự xuất hiện của mạng Internet, ai đó đều rất khó ngăn chặn một thông điệp ngay tức khắc được truyền đi khắp địa cầu.

Thế giới đang trở nên đầm ấm biết bao khi những kẻ yêu nhau xa nhau vẫn có thể thường xuyên không chỉ nghe được tiếng nói của nhau qua điện thoại mà còn có thể trực tiếp nhìn thấy nhau trên màn hình của máy điện toán cá nhân. Nhưng, thế giới lại cũng đang cùng có những mối lo chung về lỗ thủng của tầng Ozon, về sự lan truyền của căn bệnh thế kỷ AIDS, về tổ chức khủng bố xuyên quốc gia v.v…

Trước thực tế của những yếu tố toàn cầu đó, loài người đang ngày càng ý thức rõ hơn về một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi cá nhân không thể chỉ suy nghĩ về mình, mỗi quốc gia không còn chỉ có thể tự bảo vệ mình mà tất cả cùng phải đặt mình vào cộng đồng chung toàn thế giới. Từ đây, những lợi ích và giá trị chung toàn nhân loại không những đang trở thành hiện thực không thể chối bỏ mà còn có ý nghĩa ưu tiên hàng đầu so với những cái khác.

Sự xuất hiện của những vấn đề toàn cầu động chạm đến lợi ích của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Sở dĩ như vậy là vì các quyền của con người bản thân nó vừa chứa đựng những nhu cầu riêng biệt vừa là phản ánh tổng hợp mọi vấn đề toàn cầu. Mặt khác, mỗi vấn đề toàn cầu hoặc có hình thức là một quyền xác định của con người hoặc trở thành đối tượng tác động của chính nó. Các quyền của con người và của các dân tộc đan kết hữu cơ với những vấn đề toàn cầu và những vấn đề toàn cầu cũng làm nảy sinh sự ra đời và vận hành các thiết chế và quy phạm chung tạo điều kiện hình thành các lực lượng chung cùng tham gia giải quyết những vấn đề nhân quyền hướng tới trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại. Nhân quyền cũng đa dạng, cũng phức tạp và bản thân cũng chứa đầy mâu thuẫn như thế giới nhưng lại cũng phải được quan niệm thống nhất như chính bản thân thế giới không thể chia cắt, không thể tách rời.

Phấn đấu thiết chế cho được những ý niệm chung về nhân quyền và nỗ lực xúc tiến những biện pháp hữu hiệu nhất để thực hiện hóa việc thực thi và bảo vệ các giá trị chung toàn nhân loại đó phải là nghĩa vụ thiêng liêng xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái, bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững cho mỗi quốc gia và cho cả cộng đồng quốc tế.

Tự do, bình đẳng, công lý chính là đặc trưng bản chất và yêu cầu cơ bản của nhân quyền. Chính những giá trị nhân văn cao quý, vĩnh hằng đó sẽ hội tụ nhân loại lại và nâng tầm con người lên. Khi giương cao ngọn cờ “Tự do hay là chết” thì dù con người có phải hy sinh người ta cũng chắc chắn là thánh thiện, là không bị dối lừa. Bởi vì, ta từng thấy trong lịch sử, nếu chỉ biết xả thân dưới ngọn cờ: “Tổ quốc hay là chết” thì nhiều khi con người dễ bị mê hoặc để tự biến thành vật tế thần cho một tập đoàn xảo quyệt hoặc một cá nhân cuồng loạn nào đó.

Thật ghê sợ khi vị thủ lĩnh từ một hòn đảo nhỏ bé gào thét lên: Kẻ thù mà đặt chân lên đất nước này thì chúng chỉ có thể bước đi trên hoang tàn của máu và tro bụi!

Hàng chục, hàng trăm triệu người sao lại chỉ có thể được sống, tổ quốc sao lại chỉ có thể được phép tồn tại khi nó chịu “nhuộm màu” bởi một hệ tư tưởng ABC, chịu tuân theo sự lãnh đạo của một đảng OPQ, chịu thừa nhận một lãnh tụ XYZ? Sao người ta lại bắt trẻ già trai gái muốn được thừa nhận là yêu nước thì phải yêu chủ nghĩa xã hội (để rồi nếu không yêu chủ nghĩa xã hội tức là phản quốc, là không được bảo đảm quyền được sống). Sao lại phải đốt cháy cả giảy Trường Sơn đi nếu đất nước này không thuộc về chúng ta?!

Nhân quyền nếu được đề cao đúng mức, được tôn trọng thực sự thì quần chúng hẳn đã không bị dễ dàng lừa mị để phải hy sinh vô ích.

Do phải bảo vệ quyền lợi riêng cho những tập đoàn nhất định, do cần chống đữ để duy trì quyền cai trị của những chính phủ độc tài, chuyên chế, nhiều nhà chính trị đang ra sức xuyên tạc vấn đề nhân quyền. Lúc thì họ thổi phồng sự tách biệt giữa các quyền dân sự – chính trị với các quyền kinh tế – xã hội, lúc thì họ tô mạc tính đặc thù của nhân quyền phương Đông đối lập với nhân quyền phương Tây, lúc thì họ rêu rao về nguy cơ uy hiếp chủ quyền của nhân quyền.

Cần trích dẫn để lưu ý ở đây một số điều đã được ghi nhận trong các văn bản quốc tế về nhân quyền:

– “Nhắc lại tính độc lập và không thể chia cắt được của các quyền kinh tế – xã hội – văn hóa – dân sự và chính trị, và sự coi trọng ngang nhau tất cả các thể loại quyền con người” (điều 10 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Nhân quyền châu Á tháng 4-1993).

– “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau. Cộng đồng quốc tế phải xử lý các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng và bình đẳng và được coi trọng như nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, các quốc gia không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản” (điều 5 – Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động tháng 6-1993).

– “Bất cứ hành động chống lại luật quốc tế nào của quốc gia cũng dẫn tới trách nhiệm quốc tế của quốc gia đó” (Trích điều mục 1 của Dự án các điều mục về trách nhiệm của các quốc gia về những vi phạm luật quốc tế).

– “Dân chủ, phát triển và tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản phụ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Dân chủ phải được xây dựng trên nền tảng ý chí bày tỏ tự do của nhân dân về sự lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của mình và sự tham gia đầy đủ của họ vào mọi lĩnh vực đời sống. Theo cách đề cập như trên, việc đề cao và bảo vệ các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên bình diện quốc gia và quốc tế cần mang tính phổ cập và được thực hiện vô điều kiện. Cộng đồng quốc tế cần ủng hộ việc tăng cường và đề cao dân chủ, phát triển và tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản trên toàn thế giới. (Điều 8 Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động của Hội nghị thế giới về nhân quyền ngày 25-6-1993).

Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc của các quyền kinh tế – văn hóa – xã hội, những người cộng sản đã từng nắm tay nhau hát vang bài “Quốc tế ca“, “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian… “. Các Mác đã từng kêu gọi thống thiết: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!“. Trước những yêu cầu tổng hòa và thiêng liêng của nhân quyền trong thế giới hiện đại, liên minh của cả cộng đồng nhân loại càng phải rộng rãi hơn. Liên minh vì nhân quyền sẽ không phân biệt kẻ giàu với người nghèo, “lục địa đen” đói rách hay “mái nhà chung” của những người da trắng sang trọng, phương Đông với các nền văn minh Hoàng Hà và Euphrate hay phương Tây với Hollywood và Baikonur.

Tổng thống nước Cộng hòa Pháp Francois Mitterrand từng trăn trở với câu hỏi: Liệu người ta có thể hoạt động chung được không, nếu tất cả các giá trị đều là tương đối và do đó triệt tiêu lẫn nhau?, và ông tự trả lời: Làm thế nào có thể khác hơn là xác định một số tối thiểu giá trị phổ quát để chí ít đặt nền tảng cho sự đoàn kết giữa những con người. Chính ông đã từng khẳng định:

“Trong thế giới ngày nay, không ai có thể tự cứu mình bằng cách chống lại người khác. Tình trạng ngày càng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và văn hóa buộc người ta phải đoàn kết”.

Sẽ không mấy ai đồng tình với ý đồ lợi dụng trong lời tuyên bố phi nhân quyền của cố vấn tổng thống Hoa Kỳ Brezinski: “Với ngọn cờ quyền con người chúng ta sẽ dồn chủ nghĩa cộng sản đến tận chân tường”, song, vì những lý tưởng nhân quyền phải được thấm nhiễm đến mỗi cộng đồng dân tộc đến từng số phận con người, nên sự quan tâm của mỗi cá nhân, của mỗi quốc gia đến nhân quyền là tất yếu. Bởi vậy, một thái độ như được biểu thị trong diễn văn của tổng thống Jimmy Carter đọc tại lễ kỷ niệm 30 năm Tuyên ngôn về Nhân quyền là cần thiết khi ông nói:

“Nguyên tắc quyền con người là linh hồn của chính sách đối ngoại của Mỹ, là một nhân tố để xác định mọi quan hệ của Mỹ với các nước khác”.

Ngoại trưởng Joe Clark cũng từng khẳng định trong lễ khai trương chính thức Trung tâm Quốc tế về Nhân quyền và Phát triển Dân chủ:

“Canada có thể sẵn sàng ngừng quan hệ với chế độ nào vi phạm nhân quyền một cách nghiêm trọng, trong khi, có thể bằng các biện pháp khác, dành viện trợ trực tiếp cho những người cần đến”.

Đầu năm 1990, tổng thống Pháp, thứ trưởng Ngoại giao Mỹ và Ngoại trưởng Anh cũng từng công bố rằng chính phủ nước họ cũng dự định làm một mắt xích tương tự giữa chính sách viện trợ và nhân quyền.

Đúng là phải như vậy! Phải thực sự như vậy mới xứng đáng là những con người, những chính phủ đang cùng quây quần lại trong hành tinh xanh đầm ấm này mà vây bọc quanh nó là vô vàn tinh tú lấp lánh sáng chứ! Đừng úp mặt vào sự sung túc về vật chất và tinh thần của cá nhân mình của quốc gia mình rồi lãng quên, rồi vô trách nhiệm với những cộng đồng người còn bị những tập đoàn này nọ nhân danh Đảng, nhân danh nhà nước, nhân danh lãnh tụ… tước bỏ hay hạn chế thụ hưởng những giá trị thiêng liêng của nhân quyền.

Dẫu sao trách nhiệm của Liên Hợp Quốc trong vấn đề nhân quyền vẫn là quan trọng hơn cả. Trước hết, Liên Hợp Quốc cần tăng cường mạnh mẽ truyền thông nhân quyền. Cần phát đến từng đơn vị dân cư ở các quốc gia những bản tin, những tài liệu giải thích, những tuyên bố, những công ước… về nhân quyền bằng tiếng của chính các đơn vị dân cư đó. Cần tổ chức và loan tải rộng khắp các chương trình phát thanh và truyền hình về nhân quyền. Đài “Châu Á Tự Do” của Hoa Kỳ nếu thực sự muốn đảm trách và làm được công việc này một cách đúng đắn cũng sẽ được ủng hộ và hoan nghênh. Quyền hạn và nghĩa vụ của Liên Hợp Quốc cần thực sự tăng cường đối với việc thực thi để hiện thực hóa quyền con người một cách có hiệu quả. Đã đến lúc cần thành lập các tổ chức như kiểu một Ủy ban Liên quốc gia về Quyền con người và một Tòa án Quốc tế về Quyền con người. Ủy ban này có thể được giao toàn quyền xem xét các đơn khiếu nại về tội vi phạm quyền con người của từng cá nhân riêng lẻ hay của một cộng đồng người bất kỳ. Tòa án Quốc tế nhân quyền sẽ thụ lý hồ sơ xem xét sau khi thông qua Ủy ban, nếu Ủy ban, vì những lý do nào đó, không thể giải quyết thỏa đáng các đơn khiếu nại.

Do chính sách bảo thủ và ngoan cố của một số nước, Hội nghị Quốc tế về Nhân quyền Vienna 1993 chưa thể đi đến quyết định, nhưng tin chắc rằng việc cắt cử một cao ủy Liên Hợp Quốc đặc trách nhân quyền ở từng nước sẽ phải được thực thi. Bởi vì, đúng như nhà xã hội học Nga Penovskin đã nói:

“Quá trình điều tiết bằng luật pháp quốc tế (khu vực và phổ biến) các mối quan hệ có liên quan đến các quyền của con người không phải là cái gì khác mà chính là biểu hiện đặc thù của quá trình loài người trưởng thành lên với tính cách là một chỉnh thể thống nhất”. (5)

3. Quyền Con Người Ở Việt Nam

 

N

hững điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam không ngừng được tăng lên, về số lượng, qua các bản Hiến pháp. Hiến pháp 1946 có 18 điều. Hiến pháp 1959 có 21 điều. Hiến pháp 1980 có 29 điều. Hiến pháp 1992 có 34 điều, tăng gần gấp đôi số điều trong Hiến pháp 1946. Tuy nhiên, như đã nói ở phần mở đầu bài này, quyền con người ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 50 Hiến pháp 1992, được “khoán gọn” vào quyền công dân.

Trước hết phải thấy rằng quyền con người và quyền công dân không hề đồng nhất cả ở phương diện chủ thể lẫn nội dung. Quyền con người có thể không loại trừ khái niệm quyền công dân nhưng khái niệm quyền công dân không thể chứa đựng hết khái niệm quyền con người. Vả chăng, với sự phát triển của các giá trị nhân đạo mới, trong điều kiện toàn cầu hóa của thế giới hiện đại, con người không chỉ tồn tại với tính cách là một thành viên công dân của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng đồng thế giới.

Quyền con người, hay chỉ là quyền công dân thôi, cũng phải được bảo đảm bằng một chế độ pháp luật. Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, nhà thông thái Hy lạp Salon đã quan niệm: Ta giải phóng tất cả mọi người bằng pháp luật. Heraclit cũng cổ võ: Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương thân mình. Thế kỷ 17 – 18, cách mạng tư sản đã từng đề cao những nguyên tắc của luật pháp: Đối với công dân, được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn đối với viên chức nhà nước, thì chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.

Tiến sỹ khoa học pháp lý Nersesjanc, trưởng ban nghiên cứu Viện Hàn lâm Khoa học Nga, đã nói rất đúng

“Pháp luật không thể có nếu như không có nhân quyền, cũng như không thể có nhân quyền mà không có pháp luật hoặc đứng ngoài pháp luật”.

Ở Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ 15, Lê Lợi đã từng giáo huấn:

“Từ thuở xa xưa, muốn cai quản quốc gia phải có pháp luật. Không có luật thì nhà nước sẽ loạn”.

Tiếc rằng, hơn nửa thế kỷ qua chúng ta đã coi thường vai trò của luật pháp nếu không muốn nói rằng đã bãi bỏ luật pháp với ý đồ lợi dụng chuyên chính vô sản để cai trị đất nước. Tiến sỹ luật học Nguyễn Hữu Liêm khẳng định:

“Thực tế của xã hội Việt Nam vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này là sự vắng mặt của luật pháp và sự sụp đổ của giá trị đạo đức cổ truyền. Dân chúng Việt Nam đang sống trong cảm nhận dân tộc mơ hồ nhưng không có nền tảng ý thức công dân”. (6)

Ông nêu nhận xét

“Lịch sử chiến tranh Việt Nam là một chuỗi dài tiêu cực hóa cái tinh thần công dân cần thiết cho một thể chế và xã hội pháp trị. Tranh chấp và bạo lực, bạo động đã chỉ tạo nên những con người ‘can trường’, ‘quyết tử’ nhưng không kiên nhẫn, thiếu bình thản, thiếu sức mạnh nội tâm về lẽ phải và công lý, thiếu tính hòa giải và rộng mở”.

Đấy là những nhận xét đúng. Suốt mấy thập kỷ cuồng bạo, khi cần kích thích mọi người cùng say máu chiến thắng người ta đã tung hô lên những khẩu lệnh cực kỳ phi nhân tính:

“Yêu xe như con, quý xăng như máu!”,

“Súng là vợ, đạn là con!”,

“Cuộc đời đẹp nhất là ở nơi trận tuyến” v.v…

Trời ơi! máu người sao có thể đem ví với xăng?! Vợ, con sao lại chỉ được coi như chiếc xe vận tải, như súng, như đạn?! Dù có giỏi biện lý đến đâu, nếu thực sự bình tâm lắng lại suy tư với con người chân chính, người ta không thể nào không bàng hoàng và lợm giọng.

Cứ cái đà ấy mà xốc tới thì ai đứng ra thuyết giảng về nhân quyền đều dứt khoát bị tước bỏ quyền sống.

Có cái đà ấy người ta mới dễ dàng “phát động quần chúng” đốt sách đi, treo ngược thầy giáo lên cột đình để “đấu tranh chính trị“. Và, vợ mới hùng hổ dạng chân giữa bà con thôn xã mà đấu tố chồng; con mới đứng lên lăng nhục và đốt râu cha trong cải cách ruộng đất.

Có cái đà ấy thì khi cần hô hào “chống xét lại” người ta mới sẵn sàng hùn nhau triệt hạ, đọa đày hàng trăm, hàng nghìn người, kể cả những người cùng đứng tuyên thệ dưới ngọn cờ búa liềm. Kể cả những người đã từng cùng nằm gai, nếm mật, vào sinh ra tử và đang được phân công giữ trọng trách trong ban chấp hành trung ương, trong cương vị Bộ, Thứ trưởng như: Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh v.v…

Chợt nhớ lại ngày nào, khi cần lên án thực dân, đế quốc, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc từng dõng dạc tố cáo trước thế giới:

“Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử”.

Mỉa mai thay, chỉ sau đó không bao lâu người ta lại thực hiện đúng cái điều này:

“Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng không xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử!”.

Những khẩu lệnh phi nhân tính ấy, những chủ trương không ngần ngại bỏ qua pháp luật để chà đạp lên nhân quyền như vậy còn di họa cho đến ngày nay khi chỉ vì những xung đột nhỏ, những mâu thuẫn quyền lợi rất không đáng kể, người ta vẫn đang tâm cầm dao róc xương bạn bè, xẻ thịt vợ, băm nát mặt cha đẻ v.v…

Không phải vô cớ mà Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1789 đã phải cảnh báo

“Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường quyền con người là những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại của các chính phủ”.

Hàng núi xương và cả sông máu của mấy triệu người Việt Nam đã đổ xuống cho lời hiệu triệu thiêng liêng “Không có gì quý hơn độc lập tự do“. Nhưng có độc lập rồi mà luật pháp không được trọng thì làm sao bảo đảm được công lý, làm sao để người dân Việt Nam có tự do. Bởi vì, như John Locke đã xác quyết

“Mặc dù những lời lý giải có thể giả dối đến đâu, mục đích của luật vẫn là không thủ tiêu và hạn chế mà là bảo toàn và mở rộng tự do… Nơi nào không có luật, nơi đó cũng không có tự do”.

Phải chăng vì vậy mà chính chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dự cảm:

“…nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.

Lý Đông A, một trong những nhà tư tưởng yêu nước chủ trương thuyết Duy Tân ở Việt Nam cũng từng suy tưởng:

“Quốc gia với dân tộc chỉ là một khái niệm, một tên gọi rỗng không nếu không sung thực cho nó một thực thể ở bên trong”.

Ông cho rằng “Quốc gia hay dân tộc chỉ là hư danh” mà điều quan trọng là phải kiến tạo cho được

“Cái sinh mệnh thực thể của giống nòi và toàn dân hướng theo một lý tưởng và chính nghĩa”.

Mấy năm gần đây, Quốc hội Việt Nam đã chú tâm và có thành tích khá là đã xây dựng gấp gáp được một số bộ luật, trong đó có những bộ luật quan trọng liên quan đến nhân quyền. Tuy nhiên, soạn thảo các bộ luật là điều cần thiết nhưng giáo dục và phổ biến luật pháp cũng là yêu cầu không thể không thực hiện đối với toàn xã hội. Thực thi pháp luật càng có ý nghĩa quan trọng hơn.

Thật là tồi tệ khi thực tế cho thấy rằng trước khi thi hành luật tố tụng hình sự, ở nước ta, trong số những người bị bắt giam chỉ có chừng 30% được đưa ra xét xử. Bảy mươi phần trăm còn lại phần đông là bị bắt oan. Lúc đó, tỷ lệ số người bị bắt khẩn cấp một cách vô tội vạ chiếm tới 90%. Sau khi thi hành luật tố tụng hình sự, số người bị bắt khẩn cấp năm 1989 giảm xuống được khoảng 22% nhưng cho đến nay, riêng năm 1996 vẫn còn tới trên dưới 500 người bị bắt oan.

Nhà nước pháp quyền phải là “nhà nước phục tùng pháp luật”, hay có thể nói, nhà nước pháp quyền là nhà nước ban hành pháp luật, tuân thủ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhưng, biết đến bao giờ nhân dân Việt Nam mới được sống trong tinh thần công lý của nhà nước pháp quyền khi mà ngay cả các cơ quan công quyền cũng chưa hiểu hết hoặc cố tình không làm theo pháp luật; khi mà vẫn tồn tại những phiên tòa lập lờ, công khai trá hình, có xử mà không có xét như các phiên tòa xử Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang!

Không cần để tâm gì đến những quyền đã được ghi trong điều 17 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948:

“Mỗi người sống riêng một mình hay trong tập thể, có quyền sở hữu tài sản. Không ai phải bị tước đoạt sở hữu của mình một cách tùy tiện”,

những năm tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã không những chỉ thẳng tay truy quét tư sản mà còn hăng hái quyết tâm tiêu diệt “công thương nghiệp tư bản tư doanh“. Trong các hội nghị Trung ương đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 15 – 16, chúng ta đã từng chăm chú nghe báo cáo một cách hoan hỉ

“Nền kinh tế miền Bắc từ chỗ có nhiều thành phần, về cơ bản, đã trở thành một nền kinh tế thuần nhất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”!

May sao, mãi đến gần đây chúng ta mới kịp sửa sai và đã chịu ghi vào Hiến pháp

“Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường… Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân… ” (điều 15)

Chỉ riêng việc nhận thức ra được và dám từ bỏ cơ chế sai lạc của kinh tế xã hội chủ nghĩa để dấn thân vào kinh tế thị trường đã cho phép chúng ta giải quyết tốt hơn những vấn đề nhân quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho con người được bình đẳng về kinh tế. Trong kinh tế thị trường, mỗi người vừa là kẻ mua vừa là người bán, mỗi người đều trong tư thế cạnh tranh ngang nhau. Không có đặc quyền nào lũng đoạn được quy luật giá trị trong việc chi phối cơ sở kinh tế của xã hội bởi vì ở đây vị trí từng người tùy thuộc vào chỗ họ đáp ứng và thực hiện quy luật giá trị đến mức nào. Quy luật đó đưa người này lên, dìm kẻ kia xuống không có sự nhân nhượng nào. Những ý đồ tạo nên các quy định pháp lý cho đặc quyền của nhóm người này hay đảng phái kia đều sẽ bị quy luật kinh tế thị trường vô hiệu hóa.

Để tạo điều kiện cho quy luật kinh tế thị trường nhanh chóng phát huy mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội, chính phủ cần nhanh chóng chuyển từ chức năng chỉ đạo các chủ thể kinh tế thông qua các bộ và ủy ban nhân dân địa phương sang chỉ đạo chủ yếu qua các cơ quan thuế, tòa án, bằng hệ thống pháp luật; nhanh chóng tách các hoạt động hành chính có tính chất quản lý khỏi các hoạt động hành chính có tính chất tài phán nhằm giảm thiểu tình trạng thiếu dân chủ, lạm quyền, ức hiếp quần chúng thường xảy ra ở các cơ quan hành chính, quản lý chỉ đạo.

Dẫu sao cũng phải thấy rằng sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã giải quyết khá thành công nhiều yêu cầu của các quyền kinh tế cho nhân dân trong khi các quyền thuộc lĩnh vực dân sự – chính trị vẫn còn rất nhiều bức bối. Cần gấp rút sửa đổi một cách nghiêm túc Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Tổ chức Quốc hội theo hướng hiện đại và dân chủ thật. Xóa bỏ tình trạng “Đảng cử, dân bầu” và những thủ đoạn sắp xếp nhân sự để gài bẫy hoặc dồn ép lá phiếu của nhân dân. Thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội cho nhân dân. Đừng láo xược quy kết trình độ dân trí thấp cho một dân tộc đã được những dân tộc có dân trí hàng đầu trên thế giới nể trọng khi cần ngụy biện quanh co để hạn chế các quyền tự do chính trị.

Mục tiêu tối thượng của cách mạng phải là nhân quyền chứ không phải chỉ là cái mẫu chủ quyền quốc gia mỏng manh. Đừng huyễn hoặc, dương dương tự đắc để nhấm nháp mãi với những chiến công năm xưa. Những nhu cầu muôn thuở và hiện đại của nhân quyền đòi hỏi mỗi đảng, mỗi chính phủ, mỗi cá nhân đều phải vươn tới, cải tạo, thậm chí lột xác nếu còn muốn xứng đáng ở vị trí lãnh đạo.

Hãy nghe lời phán bảo từ giữa thế kỷ trước:

“Các chế độ chính trị lỗi thời đã trải qua một lịch sử đầy thảm trạng bởi vì cơ chế quyền lực của nó đã biến ước vọng tự do của con người thành ảo vọng. Sở dĩ chế độ này mang bản chất bi thảm là vì nó tự buộc cho mình một nội dung hãnh tiến vô vọng. Hễ cái chế độ này vẫn ngoan cố chống lại nguyên tắc và lý lẽ mới của thời đại, thì chính tự bản chất của nó là một lỗi lầm lịch sử… Chế độ này là vở hài kịch to lớn của thế giới mà tất cả những anh hùng của nó đều đã bị khai tử. Lịch sử tiến bước và sẽ không bỏ sót một ai. Nó sẽ đi qua những sân khấu mà chung cuộc sẽ vất bỏ những chế độ lạc hậu vào nghĩa trang. Sân khấu cuối cùng mà lịch sử vừa mới bước qua là cả một vở bi hài kịch khủng khiếp”. (7)

Việt Nam đã từng dõng dạc mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập” của mình bằng những chân lý phổ quát của nhân quyền. Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã ký kết tham gia hoặc phê chuẩn nhiều công ước liên quan đến nhân quyền như: Công ước về các Quyền Chính trị và Dân sự, Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước quốc tế về loại trừ và trừng phạt tội ác Apartheid. Việt Nam đã tuyên bố:

“Các nguyên tắc cơ bản trong các văn kiện quốc tế đó là những giá trị chung của nhân loại mà chúng ta cần bảo vệ”. (8)

Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Việt Nam có thể sẽ Hóa Rồng nhưng, trước hết và quan trọng hơn, Việt Nam nhất định phải phấn đấu vì những giá trị chung thiêng liêng đó. Bởi vì, đấy chính là khát vọng ngàn đời của nhân loại, của nhân dân Việt Nam.

                                                                                                      Hà Nội 10 tháng 12 năm 1996

                                                                           Nguyễn Thanh Giang

 

 

Chú Thích:

1-          Lý Quang Diệu – Trả lời phỏng vấn “Tuần báo Thời đại“, ngày 14/6/1993.

2-          Jan Martenson – “Liên Hợp Quốc và quyền con người hôm nay và ngày mai“.

3-          Lang Yihuai – “Thực tế nhân quyền trong xã hội XHCN và cuộc đấu tranh vì nhân quyền trên thế giới“.

4-          Chen Jinda – “Chế độ xã hội và nhân quyền“,  báo Cầu Thị – 1992.

5-          Penovski N. – “Hiện thực mới trên thế giới và quyền con người“.

6-          Nguyễn Hữu Liêm – “Dân chủ pháp trị“.

7-          Các Mác – “Góp phần phê phán triết học Heghen“.

8-          Báo Nhân Dân ngày 18/6/1993.

 

Nhà báo Phạm Chí Dũng: ‘Đảng chỉ còn mang bóng hình của các nhóm lợi ích’ – RFI

7 Th12
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

DR

Sau luật gia Lê Hiếu Đằng, tối qua 05/12/2013, nhà báo tự do đồng thời là nhà bình luận tên tuổi, tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng đã viết bức tâm thư từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Kèm theo đó là hành động cụ thể với lá đơn xin ra đảng gởi đến nơi đang làm việc là Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Bức thư bày tỏ nỗi thất vọng trước vai trò độc đoán về chính trị của đảng, đã dẫn xã hội Việt Nam đến tình trạng như ngày nay. Quốc nạn tham nhũng, sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu chính trị, hố phân hóa giàu nghèo, xã hội suy đồi toàn diện…chứng tỏ sự lãnh đạo của đảng đã thất bại cay đắng.

Theo nhà báo Phạm Chí Dũng, đảng Cộng sản hiện thời chỉ còn mang bóng hình và hơi thở của các nhóm lợi ích. Lời thề trung thành với đảng của anh đã bị thực tế phủ nhận, đã đến lúc những người như anh cần phải nhận chân rằng vai trò của đảng không phải là vĩnh viễn.

Anh cho rằng việc từ bỏ đảng Cộng sản là một trong những con đường ngắn nhất để đến gần với nhân dân, và một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi.

RFI Việt ngữ đã có hân hạnh được nhà bình luận Phạm Chí Dũng tiếp chuyện tối qua, ngay sau khi vừa viết xong bức tâm thư.

 

 

 

 
Nhà báo Phạm Chí Dũng tại Sài Gòn

 
06/12/2013
by Thụy My
 
 

 

RFI

 

: Xin chào anh Phạm Chí Dũng. Thưa anh, vì sao anh lại quyết định từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam, và theo như bức tâm thư thì đây là một quyết định khó khăn trong đời phải không ?

Đây là một quyết định khó khăn trong đời tôi, khó thể nói là dễ dàng được. Vì đối với những người hai mươi năm tuổi đảng như tôi, thì tôi nghĩ cũng như nhiều người khác thôi, họ có một cái rào cản vô hình nằm trong não trạng và có lẽ nằm cả trong tim nữa. Có một sự ràng buộc vô hình mà khó dứt áo ra đi. Điều đó ăn sâu vào từ những năm tháng được đào tạo trong môi trường của Nhà nước được gọi là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Và tôi cũng như nhiều người khác chịu một mối dây liên hệ, một mối dây ràng buộc để khi quyết định rời bỏ môi trường cũ thì đó là một sự khó khăn. Điều đó giải thích vì sao mà nhóm Kiến nghị 72 từ đầu năm 2013 đã đưa ra những kiến nghị có thể nói rất cải cách, mang tính chất động trời như vậy, nhưng vẫn chưa hề diễn ra một hiện tượng thoái đảng theo đúng nghĩa – điều mà nhiều người đang mong chờ và cho là cần thiết.

Còn đối với cá nhân tôi thì thực ra như tôi đã trình bày trong bức tâm thư, lòng tin của tôi đối với đảng Cộng sản đã mất từ những năm 2000. Lúc đó tình hình đã xấu, suy thoái kinh tế và vấn đề đạo đức xã hội đã lan tràn. Tất nhiên chưa tới mức như ngày nay, nhưng mà tình trạng tham nhũng và lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền hành trong giới quan chức lúc đó đã khá phổ biến, và tham nhũng lúc đó đã đến mức gần như không thể chống nổi nữa.

Sau thời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, đến thời những Tổng bí thư khác thì tôi không còn niềm tin nữa, và thấy công cuộc chống tham nhũng gần như là thất bại. Khi đó niềm tin của tôi đối với quyền năng của đảng đã gần như chấm dứt.

Nhưng từ đó đến nay đã mười năm mà không có một chút cải cách nào khác, và tình hình thậm chí còn tệ hơn rất nhiều, như tôi đã trình bày trong bức tâm thư.

Đây là một cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện, và suy đồi toàn xã hội. Không còn niềm tin ở đảng Cộng sản, và đảng Cộng sản cũng không xứng đáng với vị trí lãnh đạo đất nước, khi để đất nước tàn tạ như ngày hôm nay. Thế thì trách nhiệm một đảng viên cần phải làm gì ? Giữ khư khư quan điểm đối với đảng, hay giữ tuyệt đối lòng trung thành đối với đảng chỉ trên danh nghĩa, và chỉ làm lợi cho cá nhân mình ?

Với cá nhân tôi, và tôi nghĩ có lẽ là với nhiều đảng viên khác, họ không chấp nhận điều đó. Chỉ có khác nhau là có người thì lên tiếng, có người im lặng, có người lựa lúc mà nói, và có những người về hưu rồi mới nói. Hiện nay có khoảng từ 35 tới 40% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng. Đó là một hiện tượng mà chính con số của một số cơ quan đảng trung ương đã phải thừa nhận.

Điều đó cho thấy là đảng không hấp dẫn, không thuyết phục người ta bằng lý luận, và bị phản bác bởi thực tế. Thực tiễn quá khác với những gì trong lý luận mà đảng vẫn thường nêu ra. Và thực tiễn ngày nay lại càng trái khoáy với những điều mà giới triết gia của đảng Cộng sản đang nêu ra.

Tôi cho rằng một sự trung thành mù quáng là không thể chấp nhận được, và hơn nữa, khi biết sự thực hoàn toàn không trung thành với nhân dân, là một sự trung thành giả dối. Cho nên tôi vẫn quan niệm là, thôi, thà là một công dân tốt còn có ý nghĩa hơn rất nhiều lần so với một đảng viên tồi.

Vì vậy thực ra trong tôi đã manh nha ý định xin ra khỏi đảng từ lâu, từ những năm 2005-2006. Nhưng tôi vẫn bị ám ảnh bởi một sự ràng buộc, một nỗi sợ hãi mơ hồ. Nỗi sợ hãi đó từ cấp trên xuống cấp dưới, từ thượng tầng kiến trúc đi tới tận cơ sở, và người ta khó thoát ra được.

Nếu như không có sự việc anh Lê Hiếu Đằng chính thức từ bỏ đảng như hôm 4/12, thì tôi cũng không biết là bản thân mình có thể quyết định được vào lúc nào sẽ chính thức từ bỏ đảng. Nhưng tôi phải cám ơn anh Lê Hiếu Đằng, và chiều nay cùng với một số anh em đi vào thăm anh Đằng, tôi muốn hỏi anh coi như là ý chung quyết, vì anh là lớp người đi trước – là tiền bối, tôi chỉ là hậu bối thôi. Và tôi thầm nghĩ ý kiến của anh sẽ là chung quyết đối với tôi.

Khi thấy anh nói về việc anh từ bỏ đảng, và một giọt nước mắt long lanh trong khóe mắt của anh, thì tôi quyết định ngay : thôi, tới lúc rồi, và không thể chần chừ được nữa. Ít nhất cá nhân mình cũng phải bày tỏ chính kiến về việc này. Và mình phải thể hiện, nếu không phải là trách nhiệm của một công dân tốt, thì ít nhất cũng phải là một người biết vượt qua được rào cản vô hình nào đó. Hay nói cách khác là vượt qua được nỗi sợ hãi.

Và đó là một cách – như tôi trình bày – con đường ngắn nhất để có thể đưa những đảng viên còn lương tâm đến gần gũi với nhân dân, với những người dân nghèo và có thể chia sẻ với họ nhiều hơn. Như vậy còn hơn là tình trạng vẫn sinh hoạt đảng nhưng sinh hoạt một cách giả tạo, lời nói không đi đôi với việc làm.

RFI : Thưa anh, có lẽ một trong những lý do khiến người ta dù không đồng tình nhưng vẫn không muốn rời đảng là vì gắn liền với chức vụ và quyền lợi, vì lâu nay tiêu chuẩn chính cho việc thăng tiến trong nghề nghiệp là đảng viên chứ không phải năng lực ?

Điều đó hoàn toàn đúng trong xã hội Việt Nam và trong giới công chức, viên chức Việt Nam. Thường đối với cấp sở, ngành, chuyên viên, cán bộ bình thường có thể không phải đảng viên, nhưng từ cấp phó phòng trở lên chắc chắn phải là đảng viên. Trong giới báo chí cũng vậy, đội ngũ ban biên tập đương nhiên phải là đảng viên.

Và cũng đúng là thực tế có khá nhiều người – tôi cho là từ 70 đến 80% – bị phụ thuộc vào chức vụ và quyền lợi. Cho nên điều rất dễ thấy trong hiện trạng xã hội Việt Nam hiện nay là rất nhiều người than thở, bức xúc về đủ thứ, về chính cấp trên của họ và chính sách của Nhà nước. Thậm chí họ có thể chỉ trích công khai đối với đảng – chỉ trích trong các quán cà phê, cả trong cuộc họp nữa.

Nhưng bảo ra khỏi đảng thì họ không đồng ý. Họ không lên tiếng, không có chính kiến về chuyện đó. Thâm tâm họ không muốn ra khỏi đảng vì họ bị ràng buộc về quyền lợi và chức vụ như vậy.

Chúng ta cũng có thể thấy một hiện tượng rất đặc trưng là trong việc bỏ phiếu cho Hiến pháp năm 2013 mới diễn ra cách đây không lâu, đã gần như tuyệt đối 100% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu thuận. Cho những điều mà trước đó thậm chí có nhiều đại biểu cho là bất công ! Chẳng hạn như vấn đề thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội, hay vấn đề kinh tế quốc doanh là chủ đạo – là một vấn đề cực kỳ bất hợp lý trong tình hình hiện nay.

Nhưng mà họ vẫn bỏ phiếu thuận, vì sao ? Thứ nhất, vì họ bị thói quen ràng buộc, não trạng trì trệ ràng buộc. Thứ hai, họ bị sự im lặng lâu ngày ràng buộc. Và thứ ba, họ bị quyền lợi của họ ràng buộc. Đó là quyền lợi đại biểu, dù là quyền lợi nhỏ ở cấp địa phương, cơ sở nhưng vẫn là quyền lợi.

Và họ ngại. Họ sợ sự thay đổi, sợ va chạm. Sợ đụng độ với những thế lực mới, và trong những hoàn cảnh mới bắt buộc họ phải thay đổi thói quen của họ, và không còn đem lại, không còn giữ gìn được cho họ quyền lợi như cũ nữa.

RFI : Thưa anh, như luật gia Lê Hiếu Đằng nói, có lẽ đảng Cộng sản đã trở thành một thứ tập đoàn lợi ích ?

Tôi cho là có nhiều nhóm lợi ích đang tồn tại trong đảng Cộng sản. Và vô tình hay hữu ý, những người xưng danh nghĩa là cộng sản đang dung dưỡng, nuôi dưỡng và thậm chí là tổ chức cho những nhóm lợi ích như vậy.

Cho nên trong bức tâm thư tôi mới nói là, nói tới đảng Cộng sản bây giờ chúng ta chỉ thấy hình bóng và hơi thở của những nhóm lợi ích. Đó là những nhóm lợi ích kinh tế, và trên nữa là những nhóm thân hữu về mặt chính trị. Đặc biệt về sau này những nhóm lợi ích kinh tế và thân hữu chính trị có khuynh hướng kết chặt với nhau càng ngày càng bền vững, càng gắn chặt và càng trục lợi.

Hậu quả của sự trục lợi đó thì 90 triệu người dân Việt Nam phải chịu. Và toàn bộ lực lượng vũ trang, bao gồm cả công an và quân đội, cũng phải gánh chịu những đợt tăng giá vô tội vạ của những tập đoàn độc quyền kinh tế Việt Nam. Chẳng hạn Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, hay Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

RFI : Theo như những gì mà chính quyền nói và làm, có lẽ cái tên « Cộng sản » không còn đúng nữa ; thực trạng Việt Nam hiện giờ rõ ràng là một nền kinh tế theo kiểu tư bản ?

Cách đây hai mươi năm, từ thời mở cửa đã có một câu dân gian là « Đảng viên nhan nhản, nhưng mà cộng sản không có bao nhiêu ». Còn về sau này thì người ta không nói tới điều đó nữa, mà người ta nói thẳng ra là không còn cộng sản nữa !

Có một số người vẫn phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, tôi thấy hơi oan uổng. Tại vì thâm tâm tôi đánh giá là thế hệ già đã gần như qua đi rồi. Những người tốt nhất, những người trung thành và chính thống nhất của chủ nghĩa cộng sản thời chiến đã gần như đã đi qua. Nhiều người đã đi vào cõi vĩnh hằng, những người còn lại thì đã rất lớn tuổi.

Số đó có thể họ có một não trạng khác biệt với một số quan điểm cởi mở. Nhưng phải thừa nhận là trong số họ có nhiều người tốt. Họ tổt về mặt đạo đức, họ giữ được đạo lý, và nếp sống của họ trong sạch hơn hẳn so với nhiều cán bộ đảng viên cao cấp hiện nay.

Còn nhiều đảng viên cao cấp lại là một tầng lớp mới, mà người ta gọi là « tư sản đỏ ». Tư sản đỏ vẫn là một khái niệm được duy trì cho tới nay và không hề mờ nhạt, thậm chí còn được đề cao hơn nữa. Chẳng hạn ở Trung Quốc người ta gọi là tầng lớp « thái tử », tức là còn hơn cả tư sản đỏ. Đó là một tầng lớp vua chúa, một thứ vua chúa của thời hiện đại.

Hiện nay nói về chủ nghĩa cộng sản hoặc chế độ cộng sản ở Việt Nam, thì rất đau buồn là theo cá nhân tôi đánh giá, gần như không còn hình bóng của những gì tốt đẹp nhất – nếu xét theo phương diện tốt nhất của chủ nghĩa cộng sản, mà chỉ còn các nhóm lợi ích mà thôi, và những quyền lợi riêng tư.

Hoặc những người được coi là tốt nhất hiện nay, nếu không dính dáng về vấn đề vật chất, thì cũng bị che mờ bởi một bức màn giáo điều, kinh viện. Họ gần như không thoát ra được điều đó. Và nếu không thoát ra được, họ sẽ không gần gũi dân chúng. Do đó sự xa cách đối với người dân càng làm cho vị trí của họ trở nên mờ nhạt trong lòng dân chúng, và làm mất niềm tin của dân đối với chế độ.

RFI : Như vậy, như trong thư anh đã nói, đã đến lúc phải nhận chân vai trò của đảng Cộng sản không phải là vĩnh viễn ?

Tôi cho là như vậy ! Không có một đảng nào tồn tại vĩnh viễn, và đã đến lúc người ta cũng cần thấy rằng – nói như một triết gia Hy Lạp cổ đại – không thể đứng giữa hai dòng nước được.

Việt Nam không phải đứng giữa hai dòng nước mà giữa nhiều dòng nước, giữa cả một dòng xoáy của thời đại. Nhà nước Việt Nam sẽ tồn tại như thế nào trong dòng xoáy thời đại đó, khi trong lòng bản thân Nhà nước cũng là một dòng xoáy khổng lồ ?

Có thể nói đó là cái thế nội công, ngoại kích mà Nhà nước Việt Nam đang phải đối mặt, và đối mặt một cách hết sức nguy hiểm. Trong lòng dân tộc, tình cảm phẫn nộ của dân chúng đang dâng lên như sóng triều, và có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

Ở bên ngoài, Nhà nước Việt Nam không gặp được nhiều thuận lợi, hoặc nói cách khác là rất ít thuận lợi trong các mối quan hệ quốc tế. Người ta nhìn Việt Nam bằng con mắt xem thường. Xem thường về nhiều thứ, trong đó đặc trưng là xem thường về bản lĩnh chính trị và đạo lý chính trị đối với giới chính khách Việt Nam. Thế thì còn làm ăn gì được nữa.

Đó là một sự thay đổi mà Nhà nước Việt Nam cần phải có, nếu không muốn bị người khác thay đổi. Nói tóm lại, những người đề cập tới việc cần phải thay đổi điều 4 Hiến pháp của đảng Cộng sản Việt Nam, tôi cho là có lý. Vì đã đến lúc cần xem xét, cần phải có một đối trọng chính trị nào đó, để mọi thứ phải được kiểm soát lẫn nhau theo cơ chế tam quyền phân lập.

Ít nhất là như vậy thì mới có thể chống tham nhũng được. Bởi nếu không chống tham nhũng thì chắc chắn là đảng sẽ sụp đổ. Lúc đó sẽ không ai giơ tay ra cứu đảng nữa, đặc biệt là dân chúng thì sẽ quay lưng với đảng.

RFI : Thưa anh, nhưng cũng có quan điểm là phải còn ở trong hàng ngũ mới có thể đấu tranh được ?

Đó là một quan điểm tồn tại cách đây mươi, mười lăm năm. Người ta cố gắng suy nghĩ rằng cần phải ở trong hàng ngũ, để đấu tranh. Và lúc đó tôi cũng suy nghĩ như vậy ! Tôi cũng cho là có thể đấu tranh được, và dù sao tiếng nói vẫn còn được cấp trên nghe tới. Tôi nhớ cách đây mười lăm năm, một số ý kiến của tôi vẫn được cấp trên tiếp nhận và có xem xét.

Nhưng mà cách đây mười năm thì đó là một sự vô vọng ! Đã không có sự tiếp nhận một kiến nghị nào cả. Một số anh em đảng viên tâm huyết mà tôi biết có kiến nghị nhiều, cũng như vậy. Lúc đó họ phải xem lại, một số những người bạn tôi đã thoái đảng. Thực chất họ không xin ra khỏi đảng nhưng không sinh hoạt đảng, coi như là một cách từ bỏ đảng, thế thôi.

Còn đối với tôi thì lúc đó tôi phải suy nghĩ. Mình còn nằm trong nội bộ, còn sinh hoạt đảng, nhưng mình không đóng góp được cái gì cả. Và mình tiếp tục phải chịu trận những cuộc sinh hoạt đảng với không khí im lặng hoàn toàn.

Tức là những buổi sinh hoạt hàng tháng vẫn phải duy trì thường xuyên. Sau khi đọc bản nghị quyết và hỏi có đồng chí nào giơ tay có ý kiến gì không, thì khá nhiều, hoặc hầu hết mọi người đều im lặng. Vì mọi người đều biết rằng nghị quyết đã như thế, mọi thứ sẽ được thông qua, sẽ không có gì thay đổi cả. Góp ý kiến cũng chẳng để làm gì. Và thế là người ta im lặng. Im lặng hết từ cuộc họp này đến cuộc họp khác, và tôi cũng vậy.

Tôi là người im lặng nhiều nhất. Tại vì tôi biết không để làm gì cả. Đó là sự im lặng mà tôi cho là đã phủ trùm lên cả Quốc hội vào thời nay. Đó là một thói quen im lặng, mà chỉ có những người ở trong nội bộ mới hiểu được nguồn cơn sâu xa của sự im lặng đó đến từ đâu.

RFI : Anh có nghĩ là sẽ có những người hưởng ứng theo không ?

Tôi hy vọng là sẽ có những người đồng cảm với tôi. Tôi không biết là họ có hưởng ứng hay không, tôi làm như thế vì ít nhất đây là vấn đề của cá nhân tôi, tôi phải giải quyết. Phải thể hiện chính kiến, và tôi cho đó là một cách để có thể dứt khoát theo con đường gần gũi với nhân dân, với người dân nghèo nhiều hơn.

Nhưng theo tôi biết thì trong giới hưu trí hiện nay cũng rất bức xúc, nhiều người bất mãn. Họ có nhiều lý do để họ bỏ sinh hoạt đảng, thoái đảng hoặc từ bỏ đảng. Tôi cho nếu không phải là anh Lê Hiếu Đằng thì sau này cũng sẽ có những người khác đi tiên phong trong việc nêu ra thực tế vấn đề, nhận chân ra vấn đề, để thay đổi vấn đề.

Đừng nghĩ rằng ra khỏi đảng là hành vi chống đảng. Đó cũng là một hành động bình thường theo điều lệ đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi, hoặc là bất cứ đảng phái chính trị nào trên thế giới. Đã có vào thì có ra, chuyện đó hết sức bình thường. Nhưng mà ở Việt Nam, trong thể chế độc tài chính trị thì đó lại là một điều phạm húy, cho nên người ta e sợ.

Nhưng nếu như có một số người cũng cùng làm điều này, cũng cùng thoái đảng, từ bỏ đảng, cùng phát biểu chính kiến của mình và nêu rõ tại sao mình làm như vậy đủ để thuyết phục những người khác, thì tôi nghĩ sẽ trở thành một hiện tượng bình thường. Không phải là một hiện tượng chính trị, mà đó sẽ là một hiện tượng xã hội, và thậm chí còn là một hiện tượng văn hóa nữa.

RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận trả lời RFI Việt ngữ.

 

TÂM THƯ TỪ BỎ ĐẢNG
 
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 12 năm 2013
 
Tôi là nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, đảng viên từ năm 1993, viết tâm thư này nhằm khẳng định một quyết định khó khăn trong đời mình:
 
Tôi chính thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng, được đào tạo từ môi trường quân đội và nhiều năm công tác trong hệ thống chính quyền, đảng cùng nhiệm vụ bảo vệ an ninh, tôi đã từng tràn đầy nhiệt huyết đóng góp cho một đất nước xã hội chủ nghĩa công bằng và bác ái. Với trách nhiệm của một đảng viên, tôi đã chưa từng tham nhũng hoặc bị sa đọa lối sống.
 
Song tất cả những gì mà Đảng Cộng sản thể hiện vai trò “lãnh đạo toàn diện” trong ít nhất một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi, cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tình cảm.
 
Kết quả của cơ chế “lãnh đạo toàn diện” của Đảng Cộng sản, mà thực chất là tư tưởng một đảng cố hữu, chính là nguồn cơn sâu xa và nguồn dẫn trực tiếp khiến cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng không thể khác hơn là thảm cảnh như ngày hôm nay.
 
Chưa bao giờ tham nhũng lại trở thành một quốc nạn ngập ngụa từ cấp trung ương đến tận cơ sở, từ trắng trợn đến vô liêm sỉ và dã man đến thế. Chưa bao giờ các nhóm lợi ích kinh tế và nhóm thân hữu chính trị, cũng như sự cấu kết giữa hai nhóm này lại biện chứng và sâu đậm đến mức bất chấp dân tình đến như vậy. Cũng chưa bao giờ hố phân hóa giàu nghèo trong xã hội ta lại thê thiết và tàn nhẫn như hiện thời.
 
Những độc đoán về chính trị đã tất yếu dẫn đến hậu quả nạn độc quyền, đặc quyền và đặc lợi, trục lợi. Hậu quả ấy đã đẩy nền kinh tế vào thế vong tồn và cạn kiệt hầu hết các nguồn tài nguyên của đất nước. Cuộc trục lợi không thương tiếc đó đã, đang và sẽ dồn ép hậu quả khủng khiếp của nó lên đầu 90 triệu người dân Việt và toàn bộ lực lượng vũ trang.
 
Chính vào lúc này, nền kinh tế Việt Nam đang đặt một chân vào vực thẳm khủng hoảng, và chỉ cần thêm ít năm nữa thôi, cơn ung hoại sẽ lan ra toàn thân để không thể một liều thuốc đặc trị nào còn tác dụng.
 
Ung hoại kinh tế lại đang phá nát cơ thể đạo đức xã hội. Xã hội suy đồi toàn diện. Chưa bao giờ đạo lý và văn hóa người Việt, dân tộc Việt lại trở nên thảm thương và bĩ cực như giờ đây. Tình người và mối dây ràng buộc lỏng lẻo còn lại giữa con người với nhau luôn và sẽ phải đối mặt với nguy cơ cắn xé lẫn nhau.
 
Ai và cơ chế nào đã gây ra thảm cảnh không thể cứu vãn như thế? Trong tâm trạng tuyệt vọng của một đảng viên, những người như tôi đã phải nhận chân rằng điều được xem là sự “lãnh đạo toàn diện” của Đảng Cộng sản đã thất bại, thất bại một cách cố ý và quá cay đắng. Không những không hướng đến tinh thần công bằng và bác ái, làm tròn nghĩa vụ một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, Đảng Cộng sản hiện thời chỉ còn mang bóng hình và hơi thở của các nhóm lợi ích.
 
Lời thề trung thành với Đảng Cộng sản của tôi đã bị thực tế đau đớn thẳng thừng phủ nhận.
 
Đảng và những người như tôi, tất cả đều sinh ra từ nhân dân và vì nhân dân. Nhưng một khi Đảng đã không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số người dân, vì sao chúng tôi phải tiếp tục trung thành với Đảng?
 
Có sinh có diệt, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản ắt phải thấy quy luật trời đất đó đang ứng nghiệm vào chính họ. Bởi thái độ vô cảm, vô trách nhiệm và tư tưởng tư hữu bất chấp dân sinh, rất nhiều đảng viên cao cấp đã đẩy xã hội vào tâm thế phản lại ý nghĩa thiêng liêng của Tổ quốc.
 
Đã đến lúc những người như tôi cần nhận chân rằng vai trò của Đảng Cộng sản không phải là vĩnh viễn. Cũng không thể gìn giữ lòng trung thành tuyệt đối với một lý tưởng chỉ còn là câu chữ cửa miệng.
 
Không nhằm mục đích chống Đảng, tôi thành tâm cho rằng thái độ từ bỏ Đảng Cộng sản là một trong những con đường ngắn nhất để gần gũi hơn với nhân dân và quyền lợi người nghèo.
 
Trong tận cùng tâm thức, một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi.
 
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
Địa chỉ: 298/4 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 1, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 01235459338
Email: vietleminhquan@gmail.com
 
        ĐƠN XIN RA ĐẢNG
 
Kính gửi:     Đảng ủy Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM
 
Tôi là Phạm Chí Dũng, đảng viên từ năm 1993, hiện công tác và sinh hoạt đảng tại Viện Nghiên cứu phát triển, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM.
 
Tôi làm đơn này đề nghị Đảng ủy Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM hướng dẫn thủ tục và giải quyết cho tôi được ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
Lý do: Tôi tự nhận thấy Đảng Cộng sản không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân dân, và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của Đảng cùng lời thề của tôi khi vào Đảng. Do vậy tôi không còn phù hợp với vai trò và nghĩa vụ một đảng viên trong Đảng Cộng sản.
 
Trân trọng.
 
Ngày 5 tháng 12 năm 2013
Người làm đơn
 
 
Phạm Chí Dũng

500 đại biểu quốc hội VN phải xấu hổ trước lời phát biểu của cậu bé 12 tuổi – DLB

7 Th12
 

Trần Quốc Việt (Danlambao) trích dịch – Ali Ahmed mười hai tuổi là học sinh lớp bảy ở Ai Cập. Những lời phát biểu của em khi trả lời phỏng vấn trên đường phố Cairo đã lan truyền khắp thế giới. Em nói tự tin, đĩnh đạc và thể hiện sự chín chắn đáng kinh ngạc và khâm phục ở vào độ tuổi như thế. 

Video về em đã lan truyền rất nhanh trên khắp các trang mạng xã hội ở Trung Quốc khiến nhà cầm quyền quyết kiểm duyệt vì sợ ảnh hưởng từ những lời nói của em. Khi được hỏi nhờ đâu em có một kiến thức và sự chín chắn chính trị sâu sắc đến như thế, em cho biết em đã lắng nghe rất nhiều người quanh em, em “dùng đầu” của em, và em đọc báo, xem truyền hình, và tìm kiếm thông tin trên mạng.
 
Em khiến tất cả những người Việt Nam chúng ta, đặc biệt thế hệ trẻ, phải cúi mặt vì xấu hổ.
 

Vài suy nghĩ vụn về chữ “phản động” – DLB

7 Th12
 
– Phản động hay anti-progressive hay reactionary có nghĩa đen là sự cản trở cho đà tiến triển. Tính từ này ra đời từ thời Cách mạng Pháp để chỉ những người mang quan điểm chính trị cổ hủ.
 
Qua thế kỷ 20, tính tự này rất được chuộng trong phong trào Cộng sản trong cuộc chụp mũ bất cứ những ai không đồng chính kiến với họ. Khoảng giữa thế kỷ 20 là thời gian mà những người Cộng Sản đang đắm chìm trong cơn hoang tưởng về việc biến thế giới thành một thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Bất cứ ai không cùng quan điểm sẽ bị coi là “phản động” vì dám cản trở bước tiến vĩ đại của phong trào Cộng Sản quốc tế.
Ở Trung Quốc những năm 50 và 60, chữ phản động được chụp cho những người bị coi là cản trở cuộc Cách mạng Văn Hóa và Bước Đại Nhảy Vọt về kinh tế. Ai cũng biết là số người chết trong hai phong trào kể trên lên đến hang chục triệu. Chết trong sự tù đày, tra tấn và nạn đói.
 
Nhưng dù gì hai chữ này trong thời gian hoang tưởng đó cũng có chút ý nghĩa vì cũng có nhiều người Cộng Sản thành thực tin rằng công cuộc của họ sẽ biến thế giới này thành “thiên đường” của giai cấp bị trị. Ai cản trở là phản động.
 
Cái chữ phản động cũng như phương thức sử dụng nó rồi được du nhập qua Việt Nam bởi Đảng Cộng Sản qua láng giềng tốt. Bất cứ ai không chia sẻ sự đên rồ của chủ thuyết Marx-Lenine bị vu cho cái tội phản động và đi kèm đó là nhà tù dưới cái tên trại Cải Tạo (đây cũng là một từ đầy cộng sản tính) hoặc cái chết. Cũng như những nơi nó đã đi qua, hai chữ “phản động” được sử dụng không chút suy nghĩ và đã để lại trên đất Việt Nam hàng triệu xác chết trong các nhà tù, hàng triệu mảnh đời tang hoang.
 
Thời gian rất công bằng. Thế kỷ 21 bắt đầu không còn bóng dáng của phong trào Cộng Sản vì chỉ vài chục năm cũng đủ chứng minh tính thiếu thiết thực của nó cũng như sư vô nhân của những kẻ thực hiện nó. Nhưng vẫn lác đác ở vài quốc gia, đảng Cộng Sản vẫn bám víu vào đó như là nồi cơm của chế độ. Trong đó có Việt Nam của tôi. 
 
Đương nhiên chế độ Cộng Sản còn thì hai chữ “phản động” vẫn phải được dùng như một trong những công cụ bảo vệ chế độ. Cho dù việc sử dụng nó vào lúc này rất lố bịch. Nó tố cáo sự dốt nát của những kẻ sử dụng.
 
Thôi thì tôi có câu hỏi nhỏ cho các bạn dư luận viên hoặc đảng viên nhé. Hy vọng không quá khó cho các bạn:
 
Nếu phản động là sự cản trở cho đà phát triển; thì giữa hai nước Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc (bản sao của Bắc và Nam Việt Nam trước đây). Nước nào là “động” và nước nào “phản động”?
 

Ông Biden bác bỏ vùng phòng không TQ, tái khẳng định chiến lược xoay trục Á châu – VOA

7 Th12

Ông Biden bác bỏ vùng phòng không TQ, tái khẳng định chiến lược xoay trục Á châu

 
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đọc diễn văn tại Đại học Yonsei, ở Seoul, Nam Triều Tiên 6/12/13

Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đọc diễn văn tại Đại học Yonsei, ở Seoul, Nam Triều Tiên 6/12/13

 
CỠ CHỮ +
Daniel Schearf

06.12.2013

SEOUL — Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã bác bỏ vùng nhận dạng phòng không mà Trung Quốc tự tuyên bố ở Biển Đông Trung Hoa. Thông tín viên đài VOA Daniel Schearf tường thuật từ Seoul rằng ông Biden nói việc này làm gia tăng căng thẳng trong khu vực và mối rủi ro xảy ra những sự tính toán sai lầm. Ông tuyên bố như vậy hôm thứ Sáu tại Nam Triều Tiên và tái khẳng định kế hoạch tái cân bằng sang Á châu.

Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden hôm nay đã đưa ra phát biểu mạnh mẽ nhất về việc Trung Quốc đột ngột nới rộng Vùng nhận dạng phòng không ADIZ.

Hạ tuần tháng 11, Bắc Kinh đã tuyên bố khu vực an ninh hàng không của họ ở Biển Đông Trung Hoa bao trùm những đảo có tranh chấp với Nhật Bản và một hòn đảo nhỏ có tranh chấp với Nam Triều Tiên. Trung Quốc đòi hỏi tất cả các máy bay định bay vào vùng này phải nộp kế hoạch bay trước và các giới chức Trung Quốc có quyền từ chối không cho bay vào.

Trung Quốc đã bác bỏ những yêu cầu của các giới chức ở Washington, Tokyo và Seoul đòi họ rút lại vùng phòng không mà Bắc Kinh nói là hợp pháp và họ có quyền làm như vậy.

Trong bài diễn văn đọc tại Đại học Yonsei, ông Biden nói rằng hành động của Trung Quốc có thể tạo ra những sự tính toán sai lầm với những hậu quả rất nghiêm trọng:

“Tôi đã thay mặt Tổng thống của chúng tôi để nói một cách tuyệt đối rõ ràng là chúng tôi không công nhận vùng đó. Nó sẽ không có ảnh hưởng gì tới những hoạt động của Mỹ. Không. Hoàn toàn không.”

Lập trường kiên quyết của vị phó tổng thống Mỹ được đưa ra một ngày sau khi ông bày tỏ những mối quan tâm sâu sắc đối với vùng phòng không với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh.

Hồi đầu tuần này, ông Biden đã hội kiến Thủ tướng Shinzo Abe tại Tokyo và nhà lãnh đạo Nhật nói với ông là không thể chấp nhận vùng phòng không mới của Trung Quốc.

Nhật Bản, Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ đã không lý gì tới những đòi hỏi của Bắc Kinh và đã phái máy bay quân sự bay vào vùng này.

Nhưng trong lúc Washington đề nghị các hãng máy bay thương mại Mỹ tuân thủ đòi hỏi của Trung Quốc, Seoul và Tokyo nhất định không chịu làm như vậy.

Nam Triều Tiên còn tiến xa hơn một bước với tuyên bố là họ có thể nới rộng vùng nhận dạng phòng không của mình, có thể làm cho căng thẳng leo thang.

Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nam Triều Tiên Wi Yong Seob nói rằng vùng ADIZ mới sẽ bao gồm một số những hòn đảo vốn ít được chú ý và một trạm nghiên cứu hải dương trên một hòn đảo nhỏ có tranh chấp với Trung Quốc.

Ông Wi nói rằng Bộ trưởng quốc phòng Nam Triều Tiên đã tuyên bố hôm thứ Năm là không phận của các đảo Hongdo, Marado và Ieodo nên nằm trong vùng nhận dạng phòng không.

Hiện chưa rõ ông Biden có đưa ra ý kiến bất đồng nào đối với kế hoạch của Nam Triều Tiên hay không. Hôm nay ông đã họp với Tổng thống Nam Triều Tiên Park Guen Hye và đôi bên đồng ý hợp tác về vụ tranh chấp với Trung Quốc.

Ông Biden đã lập lại cam kết tăng cường sự hiện diện của Mỹ ở Á châu Thái bình dương và kêu gọi cộng đồng quốc tế gây thêm áp lực để Bắc Triều Tiên từ bỏ vũ khí hạt nhân. Ông nói:

“Sự thật đơn giản là như thế này – Bắc Triều Tiên không bao giờ có được an ninh và thịnh vượng chừng nào mà họ còn theo đuổi vũ khí hạt nhân. Chấm hết.”

Tổng thống Park Guen Hye nói rằng mối quan hệ giữa Nam Triều Tiên với Hoa Kỳ là một cột trụ của ổn định cho vùng Đông Bắc Á.

Trong thời gian lưu lại Nam Triều Tiên, ông Biden sẽ đến đặt vòng hoa tại đài tưởng niện Chiến tranh Triều Tiên và đi thăm Vùng phi quân sự chia đôi hai miền Triều Tiên.

Nhà Trắng : Vùng phòng không mới của TQ “không thể chấp nhận được” – RFI

7 Th12

Nhà Trắng : Vùng phòng không mới của TQ “không thể chấp nhận được”

Phát ngôn viên Phủ Tổng thống Mỹ Jay Carney

Phát ngôn viên Phủ Tổng thống Mỹ Jay Carney

REUTERS

Vào lúc Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden kết thúc vòng công du Đông Á, Washington vào hôm qua, 05/12/2013, đã khẳng định trở lại là vùng nhận dạng phòng không mới của Trung Quốc trên vùng biển Hoa Đông, là điều « không thể chấp nhận được », và các quy định của Bắc Kinh liên quan đến vùng này không nên được áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã tránh không yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ vùng phòng không này.

 

Phát biểu với báo chí, Phát ngôn viên Nhà Trắng, ông Jay Carney cho rằng việc Bắc Kinh thiết lập vùng phòng không bên trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là một biện pháp « nguy hiểm và khiêu khích », không xứng đáng với một « cường quốc ».

Phát ngôn viên Phủ Tổng thống Mỹ còn nhấn mạnh : « Chúng tôi, Hoa Kỳ, không công nhận và cũng không chấp nhận vùng phòng không này và nó cũng sẽ không thay đổi cách thức Hoa Kỳ thực hiện các chiến dịch quân sự trong khu vực ». Ông Jay Carney đã gợi đến đòi hỏi của Bắc Kinh theo đó các loại phi cơ bay qua vùng phòng không mà họ áp đặt phải thông báo kế hoạch bay và giữ liên lạc vô tuyến, điều mà cho đến nay Quân đội Mỹ, Nhật không hề tuân thủ.

Đến Trung Quốc vào đầu tuần, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nói đến một sự khó chịu « đáng kể » ở trong khu vực châu Á, nhưng cũng nhắc lại rằng quan hệ tin tưởng giữa Bắc Kinh và Washington là điều rất quan trọng.

Bị vặn hỏi là liệu Hoa Kỳ có thể hài lòng về một giải pháp ngoại giao cho phép Trung Quốc duy trì vùng phòng không của họ trên lý thuyết hay không, Phát ngôn viên Nhà Trắng đã không trả lời thẳng, chỉ nhắc lại : « Tôi – cũng như nhiều người khác – đã nói rõ ràng là vùng đó không thể chấp nhận được. Chúng tôi yêu cầu Trung Quốc không áp dụng nó trong thực tế… Nếu không được áp dụng (..) thì điều đó phù hợp với quan điểm của chúng tôi. Chúng tôi không công nhận vùng phòng không đó. »

Người phát ngôn của Nhà Trắng còn yêu cầu Trung Quốc không nên có những hành động khác tương tự như việc thiết lập vùng phòng không trên Biển Hoa Đông, tại những nơi khác trong khu vực. Bắc Kinh nên thiết lập những tuyến liên lạc khẩn cấp với các láng giềng, trong đó có Hàn Quốc và Nhật Bản, để « đối phó với những nguy cơ mà thông báo mới đây của Trung Quốc đã gây ra ».

Trung – Mỹ chịu đựng lẫn nhau – Vnn

7 Th12

 Áp đặt của Bắc Kinh về một vùng phòng không mới chỉ là một phần trong cuộc vật lộn xung quanh tương lai lớn hơn khu vực Đông Bắc Á.

Cho tới thời điểm hiện tại, các tranh cãi thảo luận về Vùng Xác định Phòng không (ADIZ) mà Trung Quốc đưa ra ở Hoa Đông – với những quy định mới yêu cầu máy bay nước ngoài nhận diện với nhà chức trách Trung Quốc khi bay qua đây – chủ yếu tập trung vào động cơ của Bắc Kinh: Trung Quốc cố đạt được gì khi thiết lập ADIZ? Và nếu nó lập tức gây ra phản đối từ phía Mỹ hay Nhật Bản thì đây có phải là quyết định sai lầm?

Đây là những câu hỏi quan trọng, nhưng cần phải mở rộng và xem xét kỹ càng hơn về những nguyên nhân cơ bản gây ra căng thẳng tại Đông Bắc Á. Khi đó, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Liệu sự gây hấn của Trung Quốc có phải bắt nguồn từ một vị chủ tịch mới cố gắng thiết lập vị thế hợp pháp cho mình? Hay là cách tận dụng tâm lý chống Nhật trong nước? Hoặc xung đột phản ánh lịch sử trước Thế chiến II tiếp tục định hình quan hệ Đông Á hiện tại? Hay đơn thuần là một cuộc chiến tranh giành tài nguyên giàu năng lượng nằm sâu dưới vùng nước tranh chấp?

Đáng tiếc, đáp án cho mỗi câu hỏi là “Đúng”. Và nó khiến cho xung đột hiện tại ở Đông Bắc Á trở nên khó giải quyết.

Tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan tới quần đảo Senkaku/Điếu Ngư không phải là điều khác thường trong một khu vực đông đúc, nơi rất nhiều lợi ích chồng lấn và cạnh tranh. Kể từ khi thành lập Cộng hòa Nhân dân năm 1949, Trung Quốc đã giải quyết nhiều bất đồng ranh giới với các láng giềng, xong vẫn còn nhiều điểm nóng tồn tại như: tranh chấp với Ấn Độ (về khu vực Arunachal Pradesh); với một số nước Đông Nam Á (ở Biển Đông). Nhật cũng có tranh chấp với Hàn Quốc về đảo Takeshima (Hàn Quốc gọi là Dokdo).

 

Trung Quốc, Hoa Đông, Nhật Bản, Mỹ, tranh chấp
Ảnh: Phó tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe. Ảnh: Reuters

Bất đồng xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư bắt đầu từ năm 1971 khi Mỹ bàn giao cho Nhật kiểm soát nhưng Trung Quốc cũng đưa ra tuyên bố chủ quyền. Tuy vậy, mọi thứ chỉ bắt đầu nóng lên trong thập niên này, khi xung đột leo thang vượt ra ngoài vấn đề khu vực và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Tại sao tranh chấp một quần đảo nhỏ hẹp, không có người ở lại trở thành vấn đề lớn?

Vì nhiên liệu hóa thạch

Cả Trung Quốc và Nhật đều cần nhiên liệu hóa thạch. Và Senkaku/Điếu Ngư có thể có. Nó gồm một chuỗi các đảo và vỉa đá ngầm ở Hoa Đông. Kể từ khi Nhật tuyên bố phát hiện ra quần đảo vào những năm 1880 cho tới nay chưa từng có người ở. Vào cuối những năm 1960, một cuộc khảo sát địa chất đã xác định rằng, vùng nước xunh quanh quần đảo dường như chứa khá nhiều trầm tích dầu khí tự nhiên. Và mặc dù tiềm năng năng lượng này chưa từng được công nhận, thì Bắc Kinh và Tokyo đều có động lực mạnh mẽ để khẳng định chủ quyền.

Không một quốc gia nào trên thế giới nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch nhiều hơn Trung Quốc và Nhật Bản. Với đảng cầm quyền Trung Quốc, sự tồn tại hợp pháp và vị thế phụ thuộc nhiều vào đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nhập khẩu dầu và khí tự nhiên là điều tối quan trọng để thúc đẩy cơ sở hạ tầng và mở rộng quyền sở hữu xe hơi tự nhân. Thêm nhiều nguồn tài nguyên nội địa sẽ cho phép họ giảm bớt trông chờ vào các nhà xuất khẩu dầu bất ổn như Iran, Sudan, và Venezuela.

Nhật Bản lại đối mặt với tính toán hoàn toàn khác biệt. Trong ít thập niên qua, nước này đã “tránh xa” được nhập khẩu dầu và khí tự nhiên. Nhưng thảm họa nguyên tử Fukushima 2011 là nguyên nhân khiến chính phủ Nhật phải đóng cửa toàn bộ 50 lò phản ứng và dựa vào nguồn nhiên liệu hóa thạch để bù đắp lại. 

Nhưng chính sách bên miệng hố chiến tranh hiện tại xung quanh ADIZ dường như là sự phản ứng thái quá khi một vấn đề thương mại có thể thương thảo. Theo Shihoko Goto, chuyên gia Nhật tại Trung tâm Wilson thì: “Với cả Nhật và Trung Quốc, vấn đề vượt xa câu chuyện ai tiếp cận được vùng biển khơi, dầu khí và các tài nguyên khác. Đó là câu chuyện về lịch sử”.

Sức hút chủ nghĩa dân tộc

Kể từ khi kết thúc Thế chiến II, các quốc gia Đông Bắc Á đã trải qua một tiến trình hêện đại hóa có lẽ là nhanh nhất, ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, di sản chính trị từ chiến tranh và những năm trước đó – tiếp tục định hình mối quan hệ hiện tại giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Bắc Kinh, Seoul, và nhiều nước châu Á khác cảm thấy rằng, Tokyo đã không “chuộc đủ lỗi lầm” cho những hành xử trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, khi Nhật Bản thống trị châu lục thông qua “Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á”. Tuy nhiên, những người bảo thủ Nhật lại lập luận rặng rằng, Tokyo xin lỗi đã đủ, và phải xem xét lại các điều khoản “chống phòng thủ” trong hiến pháp của mình.

Trong khi đó, ba thập niên tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định của Trung Quốc đã giúp họ nâng cao sự tự tin trong việc khẳng định vị trí thống trị lịch sử khu vực – điều đã mai một ở hai thế kỷ vì sự suy yếu, phân chia và xâm chiếm của nước ngoài. Và khi quân đội của Trung Quốc lớn mạnh, hiện đại hóa thì chính phủ trở nên quả quyết hơn trong thực thi chủ quyền lãnh thổ. Tại Biển Đông, Trung Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền bao trùm phần lớn diện tích vùng biển thông qua cái gọi là “đường chín đoạn” kể cả các ranh giới lượn sát bờ biển nước khác trong khu vực.

Những diễn biến trong cuộc khủng hoảng Senkaku/Điếu Ngư là một ví dụ hữu ích. Năm ngoái, Shintaro Ishihara, thống đốc cánh hữu Tokyo tuyên bố tại Qũy Heritage rằng, ông mong muốn sẽ mua ba trong số năm đảo thuộc quần đảo này từ tay chủ sở hữu tư nhân. Chính phủ Nhật lập tức đã tiến hành mua các đảo với hy vọng sẽ tháo gỡ một cuộc khủng hoảng tiềm năng với Trung Quốc, giữ các đảo khỏi tầm kiểm soát của Ishihara. Nhưng kế hoạch đã bất thành. Theo chuyên gia Goto: “Người Trung Quốc rất thất vọng vì thực tế các đảo chuyển từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác khi họ cảm thấy họ có chủ quyền rất hợp pháp với quần đảo này”.

Chính phủ của cả Trung Quốc và Nhật đều bị cuốn vào chiều hướng chủ nghĩa dân tộc. Ông Tập Cận Bình, người đảm nhận vai trò chủ tịch Trung Quốc cuối năm ngoái, đã thông qua khẩu hiệu “Giấc mơ Trung Quốc” và tỏ rõ thái độ phản đối Nhật, từ chối gặp gỡ chính phủ Nhật. Trong khi đó, ở Nhật Bản, cuộc bầu cử mà phần thắng thuộc về thủ tướng bảo thủ Shinzo Abe đã phản ánh phần nào nỗ lo ngại của người Nhật với sức mạnh Trung Quốc. Kết quả là, chính phủ cả Nhật và Trung không hề có ý thỏa hiệp với nhau.

Dính líu Mỹ

Chuyến thăm mới đây của phó Tổng thống Mỹ Joseph Biden tới châu Á – ban đầu là để trấn an thế giới rằng “trục xoay châu Á” của Mỹ thực sự có ý nghĩa – đột nhiên trở thành một phép thử về khả năng của Washington trong việc quản lý cuộc tranh chấp giữa nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới.

Mỹ bị ràng buộc, vì hiệp ước phòng thủ chung với Nhật. Và phó tổng thống Mỹ đã mất công khẳng định rằng, không hề có bất đồng giữa Washington và Tokyo về vấn đề ADIZ. Nhưng theo thông tin của Nhật báo phố Wall, chính phủ Nhật dường như thất vọng vì Mỹ không thể quyết định nên theo các quy định mới của Trung Quốc hay phủ nhận nó. Nghĩa là về bản chất, Tokyo và Washington có động cơ khác nhau.

Về ngắn hạn, chiến lược của Mỹ khá rõ ràng: Giảm nhiệt căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật. Nếu có thể, thương thảo đi tới kết thúc tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư. Nhưng về dài hạn, cuộc khủng hoảng lại có thể chỉ là khúc dạo đầu cho vấn đề chi phối chính sách đối ngoại Mỹ trong những thập niên tới: Thức thức ngày càng lớn của Trung Quốc với ưu thế Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Học giả Stephen F. Walt viết trên Tạp chí Đối ngoại (Mỹ) rằng:

“Nếu Mỹ có thể duy trì nguyên trạng tại châu Á, góp phần ngăn chặn Trung Quốc thống trị khu vực, thì sau đó, Bắc Kinh phải tập trung nhiều hơn vào những vấn đề địa phương. Năng lực định hình chính trị của họ ở những phần khác của thế giới sẽ bị hạn chế. Ngược lại, nếu Trung Quốc rốt cuộc có thể đẩy Mỹ khỏi châu Á, họ sẽ nắm giữ vị trí bá chủ trong khu vực tương tự như Mỹ từng nắm giữ lâu dài trước đây. Vấn đề liệu Bắc Kinh có thể chịu đựng sự hiện của Mỹ ở châu Á trong bao lâu là rất quan trọng”.

Sau tất cả, điều này mới thực sự là câu chuyện lớn ẩn sau cuộc khủng hoảng Senkaku/Điếu Ngư. Trung Quốc không khẳng định tuyên bố chủ quyền vì chủ nghĩa dân tộc, vì lịch sử hay những lý do liên quan tới năng lượng, mặc dù chúng rất quan trọng. Lý do thực sự là, khi Trung Quốc có một quân đội hùng mạnh hơn, thì các khả năng và lợi ích của họ sẽ cần phải thay đổi. Các quốc gia như Mỹ hay Nhật cũng sẽ phải thích nghi. Không phải là sự kiện rời rạc, có thể giải quyết thông qua đàm phán và ngoại giao, xu thế hiện tại cho thấy, cuộc khủng hoảng Trung – Nhật quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư sẽ chỉ là bước khởi đầu cho một con đường xung đột lớn hơn.

Minh Tâm (Theo Theatlantic)